Các sản phẩm thương mại công bằng
Là sinh viên, hẳn bạn đã từng nghe về những sản phẩm được chứng nhận thương mại công bằng như chứng nhận cấp cho Starbucks. Ở một số trường học, người ta đề xuất tiêu dùng các sản phẩm thương mại công bằng rất chủ động trong các hội khuyến khích sinh viên chỉ mua các hàng hóa có chứng nhận thương mại công bằng. Vậy thương mại công bằng là gì? Và nó ảnh hưởng như thế nào khi được xem như một chiến lược phát triển kinh tế.
Các nước có thu nhập cao nhập khẩu hàng hóa từ các nước có thu nhập thấp làm gia tăng nhu cầu về lao động tại các nước có thu nhập thấp. Khi những thứ khác cân bằng, gia tăng cầu lao động sẽ làm tăng tiền lương và thu nhập. Tuy nhiên, một số nhà quan sát kết luận rằng những lợi ích mà các nước có thu nhập thấp thu về do sản xuất gia tăng - đặc biệt sự gia tăng hàng nông sản xuất khẩu – tập trung chủ yếu ở các tập đoàn lớn của những nước này, trong số đó do các cổ đông từ các nước có thu nhập cao sở hữu. Vì người lao động ở nhiều quốc gia có thu nhập thấp ít năng động, có rất ít cơ hội chọn việc làm, và không được công đoàn bảo vệ; người ta cho rằng những người bán hàng chiếm ưu thế lớn có thể giữ lại một phần lớn không đáng kể của số tiền thu được từ xuất khẩu thêm (dưới hình thức lợi nhuận) trong khi đó lại từ chối phần chia sẻ công bằng cho người lao động (bằng cách giữ mức lương thấp).
Để đối phó với vấn đề này một cách có chủ đích, các tổ chức người tiêu dùng tại một số nước có thu nhập cao đã tìm cách bỏ qua các kênh phân phối thông thường và mua hàng nhập khẩu trực tiếp từ các nhà sản xuất hoặc các tập đoàn sản xuất mà đã nhất trí với các tiêu chuẩn thương mại công bằng. Các tiêu chuẩn này đảm bảo cho các nhà sản xuất có mức giá thị trường cao hơn nếu họ đồng ý trả lương cho người lao động cao hơn so với mức trên thị trường và tuân thủ theo các quy định về điều kiện làm việc và an toàn nơi làm việc. Nhà sản xuất và các sản phẩm đáp ứng tiêu chuẩn thương mại công bằng được chứng nhận là người sử dụng lao động trong thương mại công bằng thương mại và sản phẩm thương mại công bằng. Việc ủng hộ thương mại công bằng tại các nước giàu rất mạnh mẽ đã thúc đẩy người tiêu dùng mua sản phẩm - ví dụ, cà phê, rượu vang, chuối, chè, trái cây tươi, và ca cao - chỉ từ những nhà sản xuất được chứng nhận thương mại công bằng. Khi sức ép vừa đủ, một số khách hàng doanh nghiệp của các sản phẩm này kết luận rằng họ có thể có nhiều lợi nhuận hơn khi cung ứng các sản phẩm thương mại công bằng cho khách hàng so với nguy cơ bị dán nhãn là người khai thác lao động tại thế giới thứ ba. Vì giá và tiền lương cao hơn mức thị trường, hàng hóa thương mại công bằng thường đắc hơn các sản phẩm không được chứng nhận.
Dưới góc độ kinh tế, mục đích của phong trào thương mại công bằng là phân phối lại tổng lợi ích từ thương mại quốc tế trực tiếp đến nhà sản xuất và người lao động có thu nhập thấp bằng cách tăng nhu cầu nhập khẩu hàng hóa thương mại công bằng liên quan đến hàng nhập khẩu giống nhau khác.
Liệu những nỗ lực này có thành công hay không? Các nhà kinh tế đồng ý rằng một số nỗ lực của những người ủng hộ thương mại công bằng đã thành công trong việc chuyển kênh mua bán số lượng lớn ra khỏi hàng thay thế giống hệt nhau và chuyển sang hướng hàng hóa thương mại công bằng. Đến lượt mình, sự gia tăng cầu về hàng thương mại công bằng đã làm tăng cầu về lao động sử dụng để sản xuất những hàng hóa này. Vì thế, chiến lược thương mại công bằng “đã có hiệu quả” vì nó làm tăng giá và tiền lương cho một số người bán và người lao động ở những nước có mức lương thấp - cụ thể là những người tham gia chương trình thương mại công bằng.
Tuy nhiên, hầu hết các nhà kinh tế đặt câu hỏi về hiệu quả tổng thể của hướng tiếp cận thương mại công bằng như là chiến lược phát triển kinh tế mở rộng. Họ cho rằng giá cả và tiền lương được nhóm ủng hộ thương mại công bằng thiết lập dựa trên quan điểm mang tính chủ quan cao về sự công bằng mà có thể mâu thuẫn với hiện thực kinh tế. Sự bóp méo giá cả và tiền lương thị trường dẫn đến việc không hiệu quả và các hậu quả ngoài ý muốn. Ví dụ, giá của các sản phẩm thượng mại công bằng cao hơn có thể khuyến khích các nguồn lực để duy trì sản xuất các sản phẩm thương mại công bằng lâu dài mà đáng ra là các hoạt động cung cầu thông thường sẽ thúc đẩy họ chuyển dịch sang các công việc hiệu quả hơn trong các khu vực nông nghiệp, hoặc công nghiệp nhẹ hoặc dịch vụ.
Sự chúng nhất giữa các nhà kinh tế là mua bán hàng hóa thương mại công bằng tại các nước có thu nhập cao chỉ đơn thuần là sự dịch chuyển cầu lao động trong và giữa các nước có mức lương thấp. Thương mại công bằng không làm tăng cầu lao động cũng không phải trả lương trung bình cho người lao động ở các nước có mức lương thấp. Sự gia tăng bền vững của mức lương trung bình đòi hỏi lợi ích kinh tế rộng rãi về năng suất lao động - sản lượng trên một giờ làm việc. Thật không may, việc mua bán hàng hóa thương mại công bằng không thực hiện được điều này. Lợi ích kinh tế trong hiệu suất và tiền lương đòi hỏi những cải tiến về chất lượng và số lượng của giáo dục, hàng hóa tư bản cải thiện nhiều hơn, và việc sử dụng công nghệ hiệu quả hơn.
Một số nhà kinh tế nói rằng các hành động khác của người dân ở các nước có thu nhập cao có thể mang lại lợi ích cho các nước có thu nhập thấp hiệu quả hơn hơn so với việc mua bán sản phẩm thương mại công bằng. Ví dụ, sức ép của việc loại bỏ trợ giá nông sản tại những khu vực có thu nhập cao như Mỹ và Liên minh châu Âu sẽ làm giảm mức dư thừa nông sản mà ngập tràn trên thị trường quốc tế và ít sức ép lên giá nông sản quốc tế. Những mức giá thấp tác động đến người nông dân ở các nước có mức lương thấp và khuyến khích họ tập trung nỗ lực để sản xuất hàng hóa nông nghiệp hiện không còn sản xuất ở những nước giàu có và đã không được trợ giá nữa. Theo một nghĩa nào đó, những nước có mức lương thấp có thể gặp khó khăn do sản xuất quá nhiều loại nông sản có giá trị thấp như cà phê, chuối, ca cao – mà vẫn cố tình giữ giá ở mức thấp. Điều trớ trêu là những mức giá rất thấp (và kết quả là mức lương nông nghiệp cũng thấp) lại chính là những gì mà phong trào công bằng thương mại đang tìm cách đạt được.
Nguyễn Lê Giang Thiên, dịch từ Economics, Campbell R. McConnell; Stanley L. Brue; Sean Masaki Flynn, McGraw-Hill Higher Education
» Tin mới nhất:
» Các tin khác: