Giảng dạy PBL trong Thương mại quốc tế bằng giáo trình nước ngoài (P.2)
Môn học được đưa vào chương trình BA-PSU năm học 2014-2015 đồng thời cũng là thời điểm phương pháp giảng dạy theo PBL được bắt đầu áp dụng tại Đại học Duy Tân nên nhóm tác giả so sánh giữa phương pháp giảng dạy truyền thống và phương pháp giảng dạy PBL của chương trình BA truyền thống và giảng dạy PBL áp dụng cho cả 2 chương trình.
|
Phương pháp giảng dạy không có PBL |
Phương pháp giảng dạy PBL |
Trọng số điểm môn học |
- Chuyên cần: 10% - Bài tập nhóm: 20% - Kiểm tra giữa kỳ: 15% - Kiểm tra kết thúc học phần: 55% |
- Chuyên cần: 10% - Kiểm tra nhanh: 15% - Bài tập nhóm: 25% - Kiểm tra giữa kỳ: 20% - Kiểm tra kết thúc học phần: 30% |
Cách triển khai |
Sinh viên tham gia lớp học, nghe giảng và ghi chép, đọc sách theo yêu cầu của giảng viên. Bài tập nhóm được thực hiện bằng cách chia thành nhiều nhóm nhỏ sinh viên để thảo luận các tình huống giả định do giảng viên chuẩn bị. Các tình huống thảo luận xoay quanh các vấn đề về tranh chấp các doanh nghiệp việt nam thường gặp khi tham gia thương mại quốc tế. Vì vậy, môn học dễ gây nhàm chán cho sinh viên. Cách học này làm sinh viên rất thụ động và không thu hút sinh viên đăng ký tham gia môn học. |
- Giảng viên giảng bài về lý thuyết cơ bản chiếm 30% thời gian học của cả môn học. Đầu và cuối mỗi chương, sinh viên đọc và thảo luận các nghiên cứu tình huống trong sách Global Business today đồng thời trình bày nối tiếp câu chuyện của các doanh nghiệp FDI gặp phải ở Việt Nam. Thời gian còn lại được dung để triển khai bài tập nhóm theo PBL. - Lớp học được chia thành nhiều nhóm nhỏ, mỗi nhóm từ 3-5 sinh viên. Nội dung của bài tập nhóm được tính toán cụ thể để gắn liền với tất cả bài học. Xong mỗi phần sinh viên thuyết trình sẽ có mục Q & A và định hướng của giảng viên. - Cuối cùng sinh viên sẽ viết thành bài dự án hoàn chỉnh, có sự tự đánh giá kết quả việc đóng góp của thành viên trong nhóm trên thang điểm 100. |
Kết quả khi áp dụng PBL
Đối với các lớp chưa triển khai giảng dạy PBL của chương trình BA truyền thống.
Năm học |
Lớp |
Số SV |
Pass |
Fail |
2011-2012 |
IB 404 A |
27 |
74.07 |
25.92 |
2012-2013 |
IB 404 A |
34 |
73.53 |
26.47 |
2013-2014 |
IB 40 A4 |
19 |
89.47 |
10.53 |
Do sử dụng phương pháp giảng dạy truyền thống, việc đánh giá bài thi giữa kỳ và cuối kỳ chủ yếu đánh giá mức độ hiểu và thuộc bài của sinh viên nên lớp có sinh viên chăm chỉ học thuộc lòng và nghe giảng thường có kết quả cao hơn so với những sinh viên không chăm.
Đối với lớp triển khai giảng dạy theo phương pháp PBL
Năm học |
CHƯƠNG TRÌNH BA truyền thống |
CHƯƠNG TRÌNH BA-PSU |
||||||
Lớp |
Số SV |
Pass |
Fail |
Lớp |
Số SV |
Pass |
Fail |
|
2014-2015 |
IB 404 A |
56 |
94.64 |
5.36 |
PSU-IB 351 DIS |
34 |
100 |
0 |
2015-2016 |
IB 404A |
87 |
93.1 |
6.90 |
PSU-IB 351 DIS |
38 |
100 |
0 |
IB 404 C |
65 |
89.23 |
10.77 |
PSU-IB 351 FIS |
12 |
100 |
0 |
|
2016-2017 |
IB 404 A |
56 |
73.21 |
26.79 |
PSU-IB 351 DIS |
22 |
100 |
0 |
IB 404 C |
20 |
85 |
15.00 |
PSU-IB 351 BIS |
35 |
100 |
0 |
|
IB 404 E |
75 |
84 |
16.00 |
|
|
|
|
|
IB 404 G |
45 |
97.78 |
2.22 |
|
|
|
|
|
2017-2018 |
IB 404 A |
58 |
84.48 |
15.52 |
PSU-IB 351 DIS |
35 |
92.31 |
7.69 |
IB 404 C |
88 |
78.41 |
21.59 |
PSU-IB 351 BIS |
26 |
96.15 |
3.85 |
Kết quả học tập của sinh viên thể hiện trong bảng thống kê rằng:
Tỷ lệ sinh viên thi đạt trong các lớp học theo phương pháp PBL luôn cao hơn so với lớp không áp dụng phương pháp này PBL. Sinh viên học theo phương pháp giảng dạy truyền thống thường lắng nghe kiến thức từ giảng viên và được đánh giá năng lực qua việc nhớ bài học thể hiện ở các bài kiểm tra. Trong khi đó, tổng trọng số của 2 bài thi giữa kỳ và bài thi cuối kỳ là 70% . Nếu kết quả thi thấp sẽ dẫn đến kết quả cuối cùng của môn học thấp tương ứng. Ngược lại, phương pháp giảng dạy PBl chủ yếu dựa trên các hoạt động, sử dụng câu hỏi, giải thích, chứng minh và phối hợp; kết quả thi giữa kỳ và cuối kỳ chỉ chiếm tổng 50% điểm môn học nên áp lực học thuộc bài hạ xuống, gia tăng các hoạt động tự chủ độc lập nhiều hơn.
Tỷ lệ sinh viên qua môn ở những lớp ít sinh viên (dưới 35 sinh viên) thường cao hơn so với những lớp có số lượng sinh viên quá đông. Với những lớp có số lượng sinh viên ít thường thuận tiện cho việc tổ chức bài tập nhóm và các nghiên cứu tình huống hơn. Mục “kiểm tra nhanh” chiếm 15% tổng điểm, các giảng viên thường yêu cầu sinh viên trả lời các câu hỏi ngắn về những nghiên cứu tình huống đã được chọn lọc về các doanh nghiệp theo các câu hỏi trong sách và thường bổ sung câu hỏi liên quan đến hoạt động của doanh nghiệp tại Việt Nam hoặc các quốc gia Đông Nam Á – nơi mà có sự khác biệt lớn về môi trường so với quốc gia mẹ. Điều này buộc sinh viên phải tìm hiểu trước qua nhiều nguồn thông tin khác nhau nên dễ dàng đạt được điểm cao. Việc nghiên cứu đó giúp sinh viên phát triển sự hiểu biết phong phú trong môi trường thực tế và có các kỹ năng vận dụng trong môi trường thực tiễn.
Điều này cho thấy việc áp dụng phương pháp giảng dạy PBL có kết quả tốt hơn so với phương pháp giảng dạy truyền thống, đặc biệt là với những lớp có số lượng sinh viên nhỏ.
Bài nghiên cứu của chúng tôi được thực hiện qua khảo sát kết quả học tập của hai chương trình BA đang sự dụng phương pháp học tập PBL tại Đại học Duy Tân. Kết quả chính cho thấy rằng dường như sinh viên chủ động hơn trong học tập, đạt được sự hiểu biết sâu sắc về các hoạt động kinh doanh toàn cầu, phát triển kế hoạch gia nhập thị trường lao động toàn cầu, làm việc tại doanh nghiệp nước ngoài hoặc kinh doanh với các đối tác quốc tế. Qua quá trình tìm lời giải cho vấn đề được giảng viên đặt ra, đối với giảng viên, sinh viên xem giảng viên như người chia xẻ kiến thức, hướng dẫn và theo dõi quá trình tiến bộ của sinh viên; đối với bạn cùng nhóm, sinh viên buộc phải hợp tác, phản biện, cạnh tranh, mạnh dạn và linh hoạt trong ứng xử - đây chính là những kỹ năng sinh viên rèn luyện được sau khi kết thúc môn học.
Thêm vào đó, khi tiếp nhận chuyển giao chương trình nước ngoài thì nhất thiết cần có sự chuyển giao đồng bộ từ đề cương, giáo trình, cách thức tổ chức lớp học và phương pháp giảng dạy nhưng cần có sự điều chỉnh cho phù hợp với môi trường và người học.
Mặc dù sự khác biệt về kết quả học tập thể hiện được tính ưu việt của phương pháp giảng dạy học tập song phản hồi của cựu sinh viên đã được học theo phương pháp PBL cũng là một yếu tố quan trọng. Hạn chế của nghiên cứu của chúng tôi chính là điểm này. Đồng thời cũng sẽ được nghiên cứu tiếp theo trong tương lai.
EA, L. (2008). Problem-based learning in veterinary education. Bulletin Medical Library Association, 631-636. Retrieved May 12, 2018, from https://www.ncbi.nlm.nih.gov/pubmed/19228919
Enaba, H. M., Fouad, H., & Nargundkar, S. (2016). Systemic Challenges to implementing an active learning strategy in an introductory marketing class. Business Education & Accreditation, pp. 29-42. Retrieved May 12, 2018, from ftp://ftp.repec.org/opt/ReDIF/RePEc/ibf/beaccr/bea-v8n2-2016/BEA-V8N2-2016-3.pdf
Lockheed, M. E., Vail, S. C., & Fuller, B. (1986). How Textbooks Affect Achievement in Developing Countries: Evidence From Thailand. Educational Evaluation and Policy Analysis, 8(4). Retrieved May 12, 2018, from http://journals.sagepub.com/doi/abs/10.3102/01623737008004379
Marshall JG, F. D. (1993). A study of library use in problem-based and traditional medical curricula. Bulletin Medical Library Association, 299-305. Retrieved May 27, 2018, from https://www.ncbi.nlm.nih.gov/pubmed/8374586
Nargundkar, S., Samaddar, S., & Mukhopadhyay, S. (2013). A guided probelem-based learning (PBL) approach using a reversed textbook: An application to core business analysis course. Retrieved May 12, 2018, from semanticscholar.org: https://pdfs.semanticscholar.org/077c/e8f9d19fcd13ca4e9f3701992b0142e846cc.pdf
Rankin, J. A. (1992). Problem-based medical education: effect on library use. Bulletin of the Medical Library Association, 36-43. Retrieved May 12, 2018, from https://www.ncbi.nlm.nih.gov/pmc/articles/PMC225613/
Y, H., & S, K. (2002). Teaching and Learning Strategies of PBL. Korean J Med Educ, 145-156. Retrieved May 12, 2018, from https://www.koreamed.org/SearchBasic.php?RID=1097KJME/2002.14.2.145&DT=1
Thien Nguyen Le Giang1, Dat Tran Tuan2 and Ngon Nguyen Thi Tuyen3
International School, Duy Tan University, Da Nang 550000, Vietnam, nguyenlgiangthien@dtu.edu.vn;
2 International School, Duy Tan University, Da Nang 550000, Vietnam, trantuandat@dtu.edu.vn;
3Faculty of Business Administration, Duy Tan University, Da Nang 550000, Vietnam, nguyenttuyenngon@dtu.edu.vn
» Tin mới nhất:
» Các tin khác: