Quản lý hoạt động ngân hàng thương mại
* Quản lý nguồn vốn
- Vốn chủ sở hữu: vốn ban đầu và vốn bổ sung trong quá trình hoạt động.
- Vốn nợ là tài nguyên chính của ngân hàng, chất lượng và số lượng của nó ảnh hưởng đáng kể tới chất lượng các khoản cho vay và đầu tư. Mục tiêu quản lý nợ không nằm ngoài mục tiêu quản lý chung của ngân hàng đó là an toàn và sinh lợi khi thực hiện tìm kiếm các nguồn nhằm đáp ứng yêu cầu về quy mô cho vay và đầu tư; Đa dạng hoá các nguồn nhằm tìm kiếm cơ cấu nguồn có chi phí thấp nhất và phù hợp với nhu cầu sử dụng; Duy trì tính ổn định của nguồn tiền; Tìm kiếm các công cụ nợ mới nhằm phát triển thị trường nợ của ngân hàng.
Do vậy các ngân hàng cần quản lý nguồn vốn trên 3 giác độ: Quản lý quy mô, cơ cấu và lãi suất của các khoản nợ, các chi phí lãi suất gắn với các khoản nợ; Quản lý tính ổn định của các khoản nợ; Quản lý tính thanh khoản của các khoản nợ.
* Quản lý ngân quỹ: ngân quỹ của ngân hàng là những tài sản có tính thanh khoản cao nhất, được thiết lập nhằm duy trì khả năng chi trả và các yêu cầu khác của NHTM. Do vậy NHTM cần quản lý: Dự trữ bắt buộc; Dự trữ vượt quá; Tiền mặt tại quỹ, Tiền mặt trong quá trình thu.
* Quản lý tiền cho vay: theo Mishkin có 5 nguyên tắc
- Sàng lọc và giám sát
Sàng lọc: hướng tới khách hàng có ít rủi ro nhất qua hình thức thu thập đầy đủ thông tin tin cậy về khách hàng, tiến hành phân tích, thẩm định một cách có hiệu quả là một trong những nguyên tắc quan trọng trong quản lý tiền vay.
Giám sát: thực hiện quản lý quá trình cho vay, sử dụng vốn vay của khách hàng nhằm hạn chế những người vay tiền không thực hiện những hoạt động phòng rủi ro.
- Quan hệ khách hàng: qua quan hệ khách hàng lâu dài, ngân hàng có điều kiện thu thập nhiều thông tin về những người vay tiền. Phương thức này giúp ngân hàng có được những thông tin chính xác với chi phí thấp nhất (giảm chi phí thu thập thông tin và chi phí giám sát).
- Thế chấp tài sản: là yêu cầu bắt buộc về thế chấp tài sản đối với khoản tiền vay, là một trong những công cụ quan trọng để hạn chế rủi ro, làm giảm bớt hậu quả của lựa chọn đối nghịch do nó có thể làm giảm tổn thất của người cho vay trong trường hợp người vay không trả được nợ.
- Hạn chế tín dụng: là một trong những phương thức được các ngân hàng sử dụng để hạn chế phần nào rủi ro về tín dụng. Được thực hiện theo hai hình thức: từ chối nhu cầu vay vốn của khách hàng; sẵn lòng cho vay nhưng hạn chế ở dưới mức mà người vay mong muốn.
- Vốn ngân hàng và tính tương hợp: sự bổ sung nguyên tắc này nhằm tạo lòng tin với người gửi tiền theo 3 cách: Vốn tự có của ngân hàng: với một số vốn tự có ngân hàng sẽ mất mát nhiều hơn nếu nó bị phá sản. Do vậy, ngân hàng sẽ cố gắng thực hiện những hoạt động thích hợp để có lợi nhuận và thanh toán đủ cho người gửi tiền; Đa dạng hóa danh mục cho vay nhằm đảm bảo cho người gửi tiền rằng ngân hàng không làm những việc nhiều rủi ro; Điều hành của Chính phủ: thông qua các quy định tỷ lệ tối đa mà ngân hàng nhận tiền gửi trên vốn tự có....
Đối với các NHTM: đổi mới phương pháp quản lý tiền cho vay, cải tiến phương thức tiếp cận khách hàng và phương thức cho vay, nâng cao trình độ nghiệp vụ và phẩm chất chuyên môn của cán bộ, tôn trọng và đứng về phía những khách hàng có động cơ và nhu cầu đúng đắn.
» Tin mới nhất:
» Các tin khác: