Tính ứng dụng của Bộ phân loại tính cách MBTI
Trong khoa học quản trị hành vi con người trong các tổ chức, việc các nhà quản trị cần nắm bắt đặc trưng cá nhân của nhân viên trong tổ chức của mình có vai trò hết sức quan trọng. Trong các yếu tố về đặc trưng cá nhân đó, yếu tố gắn liền với mỗi người và từ đó ảnh hưởng trực tiếp đến hành vi, cách cư xử của họ trong công việc, và cả trong cuộc sống, đó là “tính cách”.
Các nhà nghiên cứu về khoa học hành vi đã rất cố gắng để xây dựng các mô hình phản ánh tính cách của mỗi người có liên quan đến quá trình làm việc của họ. Cho đến nay, các mô hình được ứng dụng và đề cập phổ biến nhất là mô hình Big Five (năm nét tính cách lớn, chủ đạo) và mô hình trắc nghiệm tính cách MBTI (Myers-Briggs Type Indicator). Sau đây chúng ta sẽ xem xét những phân tích xung quanh tính ứng dụng của Bộ phân loại tính cách này.
Isabel Myers và đồng nghiệp của cô đã tạo ra những loại hình tính cách mà sau này khá phổ biến cho những người trưởng thành đi làm. Myers bắt đầu sự nghiệp của mình là một nhà viết tiểu thuyết trinh thám, sau đó bà bị ý tưởng về những loại hình tính cách thu hút. Bà tạo ra một loại hình có dựa một chút vào nghiên cứu của một nhà tâm lý nổi tiếng, đó là Carl Jung, và tạo ra một công cụ mà có thể phân loại mọi người vào 1 trong 16 loại hình tính cách. Công cụ này, có tên là Myers-Briggs Type Indicator, có lẽ là một công cụ đánh giá tâm lý phổ biến nhất ngày nay và có khoảng hơn 2 triệu người dân mỗi năm sử dụng công cụ này. MBIT được 89 công ty trong số 100 công ty có mặt trong bảng bình chọn của tạp chí Fortuner sử dụng, đồng thời nó cũng được sử dụng bởi các trường cao đẳng và các chương trình phát triển năng lực lãnh đạo dành cho người lớn, trung tâm tư vấn hôn nhân và nghề nghiệp, chương trình giáo dục trẻ em, chương trình huấn luyện về xây dựng nhóm.
Dựa theo loại hình này, thì mọi người được chia vào 4 phạm trù lưỡng cực sau đây: hướng nội- hướng ngoại, nhận biết bằng trực giác- nhận biết qua ý thức, ra quyết định theo lý trí – ra quyết định theo tình cảm và hành động theo chương trình – hành động linh hoạt. Điểm số có được từ một trong 4 phạm trù sẽ tạo nên 16 dạng tính cách (ví dụ như là dạng hướng ngoại, nhận biết bằng trực giác, ra quyết định theo tình cảm, hành động linh hoạt, v.v). Mặc dù người phát minh ra phương pháp thử nghiệm này đã thực hiện nhiều nghiên cứu trên phạm vi rộng và tuyên bố rằng MBTI là thước đo tính cách đáng tin cậy và hợp lý, thì những nhà phê bình khác cho rằng công cụ này có ít nhất là 3 thiếu sót lớn. Đầu tiên MBTI có những người ủng hộ hơi giống việc tôn sùng một tín điều nào đó và những người sử dụng MBTI chỉ có thể nhìn thế giới thông qua lăng kính MBTI. Lúc đó các dạng tính cách có thể trở thành bộ lọc giác quan qua đó chúng ta cảm nhận những người khác cũng có được sự hợp lý hóa hành vi của bản thân hoặc của người khác. Thứ hai, những dạng tính cách là không ổn định- nghiên cứu chỉ ra rằng những dạng tính cách này sẽ biến đổi khoảng 50% trong thời gian mà chúng ta tiến hành kiểm tra lại. Thứ ba, thí nghiệm này là tương đối dễ làm giả. Một khi mọi người nhận thức được những vấn đề cơ bản của bốn phạm trù này, họ có thể dễ dàng điều chỉnh để những kết quả đánh giá có thể khớp với bất kỳ một loại nào trong số 16 loại tính cách trên. Bởi vì những hạn chế này, nên rất khó dùng các kết quả đánh giá này cho các mục đích bầu chọn hoặc phát triển, vì những loại tính cách này dễ chuyển từ dạng này sang dạng kia. Dù cho có những hạn chế này, nhưng MBTI vẫn là một công cụ rất hữu hiệu và phổ biến giúp chúng ta hiểu được bản chất của tính cách và hiểu được tính cách được thể hiện ở hành vi hàng ngày của mọi người như thế nào.
Thúy Hải
Tham khảo Richard L.Hughes, Robert C.Ginnett, Gordon J.Curphy, Dịch bởi Nhóm dịch thuật Đại học Duy Tân, Năng lực lãnh đạo (2009), NXB Tổng hợp.
» Tin mới nhất:
» Các tin khác: