GIỚI THIỆU VỀ DỊCH VỤ BAO THANH TOÁN TẠI VIỆT NAM
Hoàng Anh Thư
I. Giới thiệu về dịch vụ bao thanh toán
Bao thanh toán là một phương thức tài trợthương mại, đặc biệt hữu ích trong hoạt động xuất nhập khẩu, theo đó doanh nghiệp sau khi hoàn thành nghĩa vụ giao hàng hoặc cung cấp dịch vụcho người mua sẽ bán khoản phải thu khách hàng (dưới hình thức là các hóa đơn thương mại) cho đơn vị bao thanh toán với mức giá chiết khấu để nhận được tiền ngay.
Các bên tham gia vào nghiệp vụ bao thanh toán bao gồm:
(1) Người bán (nhà xuất khẩu) là người bán các khoản phải thu cho đơn vị bao thanh toán;
(2) Người mua (nhà nhập khẩu) là khách hàng của người bán có trách nhiệm thanh toán các khoản phải thu cho người bán (nhà xuất khẩu);
(3) Đơn vị bao thanh toán là tổ chức cung cấp dịch vụ bao thanh toán.
Khoản phải thu (tồn tại dưới hình thức các hóa đơn thương mại là bằng chứng chứng minh việc người bán hoàn thành nghĩa vụ cung cấp hàng hóa hoặc dịch vụ) là một tài sản tài chính theo đó người mua có trách nhiệm phải thanh toán số tiền còn nợ cho người bán. Người bán sau khi lập hóa đơn, thay vì phải chờ đến kỳ hạn thanh toán mới nhận được tiền, sẽ bán (các) khoản phải thu cho đơn vị bao thanh toán để nhận được tiền ngay.
Việc bán các khoản phải thu phải gắn liền với việc chuyển quyền sở hữu các khoản phải thu cho đơn vịbao thanh toán, do đó, đơn vị bao thanh toán sẽ có toàn quyền đối với khoản phải thu. Nhờ vào việc chuyển giao quyền sở hữu này mà đơn vị bao thanh toán sẽ có quyền nhận tiền thanh toán hóa đơn và trong trường hợp bao thanh toán miễn truy đòi, đơn vị bao thanh toán phải gánh chịu rủi ro nếu người mua không thanh toán vì lý do người mua mất khả năng thanh toán.
Trong một nghiệp vụbao thanh toán thông thường sẽ bao gồm các đợt chi trả tiền sau:
1. Ứng trước tiền hóa đơn:thông thường khoản ứng trước thường chiếm 70% - 80% giá trịhóa đơn, thời điểm ứng trước là khi người bán (nhà xuất khẩu) bán khoản phải thu cho đơn vị bao thanh toán.
2. Giá trị còn lại của hóa đơn: giá trị còn lại của hóa đơn sẽđược chuyển cho người bán sau khi đơn vị bao thanh toán đã nhận được tiền thanh toán hóa đơn từngười mua (nhà nhập khẩu)
3. Phí bao thanh toán: chính là tất cả các phí dịch vụliên quan đến nghiệp vụ bao thanh toán. Phí bao thanh toán sẽđược khấu trừ vào giá trị còn lại của hóa đơn trước khi chuyển trảcho người bán (nhà xuất khẩu). Các phí này có thể bao gồm phí chiết khấu cho rủi ro của đơn vị bao thanh toán và tiền lãi của khoản tiền ứng trước.
Tùy vào từng trường hợp cụ thể, đơn vị bao thanh toán sẽước tính số tiền có khả năng không thu hồi được do người mua (nhà nhập khẩu) không thanh toán để điều chỉnh vào việc định giá khoản phải thu của người bán. Tiền lãi của đơn vị bao thanh toán chính là khoản chênh lệch giữa số tiền đơn vịbao thanh toán thu được từngười mua (nhà nhập khẩu) và số tiền mà đơn vị bao thanh toán trảcho hóa đơnvà trừ ( - ) số tiền không thu được do rủi ro tín dụng người mua không thanh toán.
Ở Mỹ, theo Các nguyên tắc kếtoán chung được thừa nhận (GAAP), các khoản phải thu được xem là đã được mua đứt bán đoạn nếu là trường hợp bao thanh toán miễn truy đòi. Nếu không thì khoản phải thu chỉđược xem là một tài sản thế chấp và nghiệp vụ bao thanh toán lúc này chỉđược xem như là một nghiệp vụ cho vay mà thôi.
Mục tiêu cơ bản của bao thanh toán đó là cung cấp dịch vụ tài chính cho các doanh nghiệp nhỏ đang trong giai đoạn phát triển nhanh. Mặc dù trong dịch vụ bao thanh toán không có sự chuyển giao quyền sở hữu hàng hóa nhưng cùng với sự kết hợp giữa dịch vụ ứng tiền cho các khoản phải thu và các dịch vụ hỗ trợ, đơn vị bao thanh toán đã cung cấp một loạt các tiện ích sau:
(1) Cung cấp cho người bán (nhà xuất khẩu) thông tin về mức độ tín dụng của khách hàng (người mua) tiềm năng ởtrong và ngoài nước và trong trường hợp bao thanh toán miễn truy đòi đó là việc chấp nhận rủi ro tín dụng đối với những khoản phải thu mà đơn vị bao thanh toán đã phê duyệt;
(2) Theo dõi quá trình thanh toán của người mua (nhà nhập khẩu) thông qua việc quản lý sổ cái theo dõi các khoản phải thu;
(3) Lập các báo cáo hàng ngày về việc thu hồi khoản phải thu;
(4) Trực tiếp thực hiện việc thu hồi các khoản phải thu cho người bán (nhà xuất khẩu)
Nhờ những dịch vụ tiện ích thuê ngoài này mà các doanh nghiệp nhỏ có thể tiếp cận thịtrường hữu hiệu hơn, đồng thời thông qua sựtư vấn của các đơn vị bao thanh toán chuyên nghiệp, các doanh nghiệp này được bảo vệ khỏi rủi ro phá sản cũng như khó khăn tài chính của một khách hàng quan trọng này đấy. Ngoài ra, các doanh nghiệp nhỏ có thể yên tâm giao phó việc quản lý khoản phải thu cho cho đơn vị bao thanh toán chuyên nghiệp vốn có nhiều kinh nghiệm trong việc truy đòi khoản phải thu và nhờ thế các doanh nghiệp này có thể sử dụng ít lao động hơn và tiết kiệm được quỹlương thưởng tại doanh nghiệp mình. Và điều quan trọng hơn cả đó là dịch vụ bao thanh toán bảo đảm cho các doanh nghiệp nhỏ tránh khỏi khủng hoảng về thanh khoản và nguồn vốn.
II. Thực trạng bao thanh toán ở Việt Nam
Tại Việt Nam, nghiệp vụ Bao thanh toán còn khá mới mẻnhưng tại nhiều nước trên thế giới đây là một công cụ tài chính hữu hiệu trong hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp. Theo thống kê của Hiệp hội Bao thanh toán quốc tế (FCI), hoạt động Bao thanh toán hiện đã mặt tại 72 nước, với sự tham gia của 264 Ngân hàng, áp dụng cho các giao dịch thanh toán theo phương thức Ghi sổ (TTR trả chậm) hoặc Nhờ thu trả chậm (D/A).
Các ngân hàng Việt Nam cung cấp dịch vụ Bao thanh toán tập trung vào các ngành xuất khẩu thế mạnh như: Dệt may, da giày, gỗ, điện tử và linh kiện, thủy hải sản đông lạnh… FCI cho biết, doanh số Bao thanh toán năm 2011 tại Việt Nam đạt 25 triệu EUR, đạt mức tăng trưởng bình quân 1,8 lần trong giai đoạn 2007-2011. Như vậy so với tổng kim ngạch xuất nhập khẩu năm 2011 là 203.6 tỳ USD thì doanh số bao thanh toán tại Việt Nam thật quả là khiêm tốn.
Tại sao dịch vụ Bao thanh toán lại chưa phát triển ở Việt Nam? Câu trả lời cho vấn đề này tựu chung vào 4 lý do sau đây:
(1) Quy định pháp lý cho dịch vụ bao thanh toán còn nhiều hạn chế. Pháp luật Việt Nam không thừa nhận dịch vụ bao thanh toán nếu không có sự chấp nhận bằng văn bản của khách hàng (người mua) về việc chấp nhận trả nợtheo phương thức bao thanh toán. Trên thực tếcác người mua lớn thường không thích phiền hà nên họ ít hợp tác. Điều này đã gây không ít khó khăn cho ngân hàng và doanh nghiệp khi thực hiện dịch vụ này.
(2) Theo quan điểm của các doanh nghiệp thì dịch vụ bao thanh toán của các ngân hàng vẫn chưa thật tiện lợi vì ngoài phí dịch vụ, nhà xuất khẩu phải chứng minh với ngân hàng về uy tín của bên mua. Điều này ngược lại với tinh thần của dịch vụbao thanh toán, đó là ngân hàng là người thẩm định về mức độ tín dụng của người mua đểtrên cơ sở đó quyết định cung cấp dịch vụ.
(3) Theo quan điểm của ngân hàng thì sở dĩ họchưa quan tâm tới việc cung cấp dịch vụ này vì có quá ít thông tin về tình hình tài chính của người mua nhất là khách hàng nhập khẩu. Các thông tin công bố nếu có cũng chưathật sự rõ ràng và đáng tin cây, vì thế, các ngân hàng khó mà kiểm định được mức độ tín dụng của người mua để chấp nhận rủi ro. Vì khả năng rủi ro cao nên các ngân hàng rất ngần ngại khi cung cấp dịch vụ này hoặc nếu có thì họ sẽ đòi một mức phí cao để có thểbù đắp rủi ro, tuy nhiên, nếu mức phí cao quá thì sẽ không hấp dẫn khách hàng. Ngoài ra, khi thực hiện bao thanh toán đồng nghĩa với việc ngân hàng phải chấp nhận rủi ro ở mức độnào đó. Thế nhưng, ở Việt Nam, rủi ro mất vốn đồng nghĩa với trách nhiệm pháp lý của ngân hàng và cá nhân của người ra quyết định. Do đó, các ngân hàng đặc biệt là các ngân hàng thương mại nhà nước không thích cung cấp dịch vụ này.
(4) Do bản thân các ngân hàng chưa mặn mà với dịch vụ này nên họ chưa chú trọng đến công tác quảng bá cho sản phẩm bao thanh toán. Vì thế, các doanh nghiệp cũng ít biết đến loại hình dịch vụ này.
Dựa vào việc phân tích thực trạng và hạn chế của dịch vụ bao thanh toán ở Việt Nam, tác giả muốn đề xuất một vài giải pháp để phát triển phương thức bao thanh toán ởnước ta như sau:
(1) Đơn giản hoá thủ tục bao thanh toán bằng cách ban hành các quy định pháp lý cụ thể điều chỉnh hoạt động bao thanh toán tại Việt Nam.
(2) Tăng cường công tác quảng bá, giới thiệu những tiện ích của sản phẩm bao thanh toán cho các doanh nghiệp và thực hiện chính sách phí linh hoạt, phù hợp với các doanh nghiệp vừa và nhỏ.
(3) Ngân hàng Nhà nước làm đầu mối thành lập Hiệp hội Bao thanh toán Việt Nam, khuyến khích các ngân hàng tham gia vào việc chia sẻ thông tin, hỗ trợ công nghệ và nghiên cứu quy chế thành lập các công ty Bao thanh toán độc lập. Đây cũng là một bước hội nhập với nền tài chính quốc tế của Việt Nam.
» Tin mới nhất:
» Các tin khác: