Quan hệ hợp tác giữa các doanh nghiệp hay giữa các đối tác đã được nghiên cứu khá bài bản về lý thuyết cũng như ứng dụng thực tiễn ở nhiều quốc gia trên thế giới (Anderson & Narus, 1990; Hanna & Walsh, 2008; Huybers & Bennett, 2003; Lane & Bachmann, 1997; Morgan & Hunt, 1994; Rosenfeld, 1996) và kể cả ở Việt Nam (Nguyen, 2011). Vai trò của hợp tác giữa các hãng ngày càng trởnên quan trọng, đặc biệt giữa các doanh nghiệp xuất nhập khẩu và doanh nghiệp logistics Việt Nam trong điều kiện hội nhập kinh tế sâu rộng: sự hình thành cộng đồng kinh tế ASEAN (AEC) và cuối năm 2015 với lộ trình tự do hoá dịch vụ logistics vào năm 2013 và nhất là Việt Nam sẽ sớm tham gia Hiệp định Đối tác Kinh tế Chiến lược xuyên Thái Bình Dương (TPP)
1. Thực tếcho thấy kim ngạch xuất nhập khẩu Việt Nam đang tăng nhanh: tính đến tháng 9/2015, tổng kim ngạch xuất nhập khẩu hàng hoá cả nước đạt xấp xỉ 230 tỷ USD, tăng 12,9 % so với cùng kỳ năm 2014
2. Đặc biệt, Việt Nam đã có những mặt hàng xuất khẩu kỷlục như gạo, cà phê, nông thuỷ sản... Có được thành quả này một phần nhờ vào sự phát triển của dịch vụ logistics Việt Nam trong thời gian qua. Trong khi đó, về phần mình, các nhà xuất nhập khẩu cũng là những người cung cấp việc làm cho những công ty logistics. Sựthay đổi của chủ hàng do vậy là một trong những nhân tố chính thúc đẩy sự phát triển của ngành logistics. Tuy nhiên, so với các nước phát triển trên thế giới, và kể cả so với một số quốc gia trong khu vực ASEAN, chất lượng dịch vụ logistics Việt Nam chưa cao đã ảnh hưởng không tốt đến hoạt động xuất nhập khẩu. Vì thế, hợp tác giữa các doanh nghiệp xuất nhập khẩu và logistics có thể là giải pháp hữu hiệu. Hợp tác hiệu quả giữa các doanh nghiệp này sẽ góp phần giảm chi phí, nâng cao năng lực cạnh tranh cho các doanh nghiệp trong ngành với những giải pháp giảm chi phí và thời gian cho doanh nghiệp xuất nhập khẩu, các giải pháp quản lý rủi ro, giảm tổn thất trong vận chuyển hàng hoá xuất nhập khẩu thông qua dịch vụ đại lý hải quan... Việt Nam được đánh giá là quốc gia có điều kiện tự nhiên và vị trí địa lý vô cùng thuận lợi để phát triển ngành logistics với bờ biển dài khoảng 3.260 km trải dài từ Bắc đến Nam, trên 17.000 km đường nhựa, hơn 3.200 km đường sắt, 42.000 km đường thuỷ, 266 cảng biển, 20 sân bay và hàng trăm cửa khẩu quốc tế, nằm ở trung tâm khu vực châu Á – Thái Bình Dương... Tuy nhiên tiềm năng và lợi thếnày chưa được phát huy đúng mức, đặc biệt trong việc phát triển dịch vụ logistics hỗ trợ xuất nhập khẩu. Theo nhiều nhà nghiên cứu, điều này do nhiều nguyên nhân, trong đó có nguyên nhân thiếu sựgắn kết giữa các doanh nghiệp logistics và doanh nghiệp xuất nhập khẩu. Mặt khác, nghiên cứu tại các quốc gia phát triển và ngay cả trong khu vực cho thấy, các doanh nghiệp xuất nhập khẩu luôn đàm phán và tìm ra các phương thức mua bán hàng hoá mà người bán tìm mọi cách để đưa hàng hoá đến tận cửa của người mua kể cả việc trả thuế quan nhập khẩu... tạo ra chuỗi cung ứng ổn định và bền vững mà người mua sẵn sàng chấp nhận, trong khi đó các chủ hàng Việt Nam thì làm ngược lại. Thêm vào đó, tập quán mua
CIF bán FOB khiến các doanh nghiệp Việt Nam chỉ khai thác vận tải và bảo hiểm được từ 10 đến 18% lượng hàng hoá xuất nhập khẩu. Rõ ràng là việc đẩy mạnh liên kết các doanh nghiệp xuất nhập khẩu và logistics là chìa khoá để nâng cao năng lực cạnh tranh và gia tăng giá trịcủa thương mại. Do đó, cần phải nghiên cứu về mặt thực tiễn để tìm ra các nhân tố chính ảnh hưởng đến quan hệ hợp tác giữa các doanh nghiệp xuất nhập khẩu và logistics. Trong khuôn khổnày, nghiên cứu xây dựng mô hình lý thuyết những nhân tố tác động đến sự hợp tác giữa các doanh nghiệp xuất nhập khẩu và logistics sẽ làm tiền đề cho nghiên cứu thực tiễn vấn đềnày trong tương lai.