Microsoft
Mỹ và Microsoft
Trường hợp chống độc quyền ở Microsoft là trường hợp độc quyền nổi bật nhất kể từ khi AT&T bị phá sản trước những năm 1980.
Buộc tộiVào tháng 5 năm 1998, tòa án tối cao Mỹ (dưới thời tổng thống Clinton), có 19 bang, và Tòa án DC (dưới đây gọi là « chính phủ ») khởi kiện Microsoft đã vi phạm độc quyền dưới đạo luật chống độc quyền Sherman. Chính phủ đã buộc tội Microsoft vì đã vi phạm vào khoản 2 của đạo luật thông qua một loạt hành động phạm pháp được thực hiện để duy trì độc quyền đối với sản phẩm « Windows ». Nó cũng bị buộc tội vì đã vi phạm vào khoản 1 của đạo luật Sherman.
Microsoft đã phản đối những lời buộc tội này, nó cho rằng những thành công mà nó có được thông qua việc cải tiến sản phẩm và hành động kinh doanh hợp pháp. Microsoft cho rằng nó không thể bị phạt bởi khả năng tiên đoán, sự nhạy bén trong kinh doanh và năng lựa kỹ thuật của nó. Nó cũng chỉ ra rằng sự độc quyền của nó chỉ diễn ra trong ngắn hạn bởi sự phát triển nhanh chóng của kỹ thuật.
Tìm kiếm thông tin của tòa án Vào tháng 6 năm 2000 tòa án quận đã quy định rằng thị trường liên quan là phần mềm được sử dụng để vận hành máy tính cá nhân tương thích với Intel (PCs). 95% thị phần của Microsoft trên thị trường rõ ràng đã cho nó một sức mạnh độc quyền. Tuy nhiên, tòa án chỉ ra rằng sự tồn tại của độc quyền là không hợp pháp. Microsoft đã vi phạm đạo luật Sherman vì nó đã sử dụng hành động chống cạnh tranh nghĩa là duy trì sức mạnh độc quyền.
Theo tòa án, Microsoft đã lo sợ thành công của Netscape’s Navigator, việc cho phép mọi người truy cập Internet có thể cho phép Netscape mở rộng phần mềm của nó để cạnh tranh trong hệ thống vận hành của máy tính cá nhân – phần mềm mà sẽ đe dọa đến sự độc quyền của Windows. Nó cũng sợ Sun’s Internet áp dụng ngôn ngữ lập trình Java mà có thể đe dọa đến sự độc quyền của phần mềm Windows của Microsoft.
Để chống lại những điều này và sự đe dọa tương tự, Microsoft đã phạm pháp trong việc ký các hợp đồng với những nhà sản xuất PC nhằm yêu cầu họ đưa Internet Explorer lên màn hình của PC và phạt các công ty quảng cáo cho các sản phẩm phầm mềm cạnh tranh với sản phẩm của Microsoft. Hơn nữa, nó cho công ty thân thiết mã để liên kết với các ứng dụng của phần mềm Windows và ngăn cản các mã từ công ty Netscape. Cuối cùng, dưới sự cho phép của Sun, Microsoft đã phát triển phần mềm Windows-related Java mà làm cho phần mềm của Sun không tương thích với Windows.
Biện pháp của tòa ánTòa án quận yêu cầu Microsoft chia thành hai công ty cạnh tranh, một chủ yếu bán hệ thống vận hành Windows và một chủ yếu bán các ứng dụng của Microsoft (như Word, Hotmail, MSN, Powerpoint, và Internet Explorer). Cả hai công ty sẽ được tự do phát triển các sản phẩm mới để cạnh tranh với công ty khác và cả hai có thể nhận được các sản phẩm này từ tài sản trí tuệ trong những sản phẩm thông thường tồn tại ở thời điểm phân chia.
Sự kháng cáo các quy định của tòa ánVào cuối năm 2000 Microsoft đã kháng cáo những quyết định của tòa án quận lên tòa án phúc thẩm Mỹ. Vào năm 2001 tòa án cấp cao hơn đã khẳng định rằng Microsoft đã phạm pháp trong việc duy trì độc quyền nhưng không cần phải thực thi quyết định của tóa án quận về việc chia Microsoft thành hai công ty. Nó đồng ý với Microsoft rằng công ty không bị khiển trách do đang trong giai đoạn thử nghiệm các hình phạt và tòa án quận đã sai khi thực hiện các cuộc phỏng vấn rộng rãi với báo chí. Tòa án phúc thẩm đã gởi các giai đoạn khắc phục hậu quả của trường hợp này đến tòa án quận mới để quyết định các biện pháp khắc phục thích hợp. Tòa án phúc thẩm cũng đưa ra các vấn đề liên quan đến biện pháp khắc phục thông qua cấu trúc tinh thông.
Thỏa thuận cuối cùngDưới những tranh cãi của thẩm phán mới ở tòa án quận, Chính phủ liên bang (dưới thời tổng thống George W.Bush) và Microsoft đã thương lượng và đi đến một thỏa thuận. Với một thay đổi nhỏ, thỏa thuận cuối cùng được đưa ra vào năm 2002. Việc chia Microsoft thành hai công ty sẽ không được thực hiện, thay vào đó là những biện pháp hành vi. Đó là (1) cấm Microsoft trả thù bất kỳ công ty nào đang phát triển, bán và sử dụng phần mềm cạnh tranh với Windows và Internet Explorer của Microsoft hoặc đang chuyên chở máy tính cá nhân có hệ thống vận hành Windows hoặc không có hệ thống vận hành của Microsoft ; (2) yêu cầu Microsoft thiết lập việc thống nhất trả tiền bản quyền và giấy phép cho những nhà sản xuất máy tính mà muốn sử dụng Windows trong PCs của họ ; (3) yêu cầu Microsoft cho phép nhà sản xuất bỏ biểu tượng Microsoft và thay thế bằng biểu tượng khác trên màng hình Windows ; và (4) yêu cầu Microsoft cung cấp thông tin kỹ thuật cho các công ty khác để họ có thể phát triển các chương trình làm việc tốt như Windows, sản phẩm mà Microsoft đang sở hữu.
Những hành động và sự vi phạm của Microsoft đã làm nó phải tốn hàng tỷ USD để nộp phạt. Ví dụ điển hình : nó phải trả cho AOL Time Warner (Netscape) 750 triệu USD ; Ủy ban châu Âu 600 triệu USD ; Sun Microsystems 1.6 tỷ USD ; Novell 536 triệu USD ; Burst.com 60 triệu USD ; Gateway 150 triệu USD ; InterTrust 440 triệu USD ; RealNetworks 761 triệu USD và IBM 850 triệu USD.
Nguồn : Mỹ và Microsoft (District Court Conclutions of law), tháng 4 năm 2000 ; Mỹ và Microsoft (Courts of Appeals), tháng 6 năm 2001; Mỹ và Microsoft (Final Judgment), tháng 11 năm 2002; và Reuters and Associated Press News Services.
Biên dịch: Lê Thị Khánh Ly
» Tin mới nhất:
» Các tin khác: