Education in Vietnam (P.2)
Public Education vs. Private Education
Trước đây, trong hệ thống giáo dục đại học Việt Nam tồn tại hai mô hình trường Đại học công lập và trường Đại học dân lập (nay là trường Đại học tư thục).
Theo định nghĩa của từ điển Bách khoa toàn thư, trường Đại học công lập là trường đại học do nhà nước (trung ương hoặc địa phương) đầu tư về kinh phí và cơ sở vật chất (đất đai, nhà cửa) và hoạt động chủ yếu bằng kinh phí từ các nguồn tài chính công hoặc các khoản đóng góp phi vụ lợi, khác với đại học dân lập hoạt động bằng kinh phí đóng góp của học sinh, khách hàng và các khoản hiến tặng.
Trường đại học dân lập (ĐHDL) là cơ sở giáo dục do tổ chức xã hội, xã hội – nghề nghiệp, tổ chức kinh tế (dưới đây gọi là tổ chức) xin thành lập và huy động các nhà giáo, nhà đầu tư cùng đóng góp công sức, kinh phí và cơ sở vật chất ban đầu từ nguồn ngoài ngân sách Nhà nước[1].
Trường ĐHTT là một cơ sở giáo dục đại học thuộc hệ thống giáo dục quốc dân, do cá nhân hoặc tổ chức xin phép thành lập và tự đầu tư[2].
Về cơ bản, các trường dân lập và tư thục không khác nhau nhiều, đặc biệt là về chế độ tự chủ tài chính. Sự khác biệt cơ bản của hai mô hình này chính là trường đại học dân lập được thành lập dưới sự bảo hộ của một tổ chức chính trị - xã hội nhất định; còn trường đại học tư thục thì không cần điều kiện trên.
Tuy nhiên, do tính cộng đồng trong văn hóa người Việt Nam vốn xưa nay vẫn đối nghịch với những điều được coi là chủ nghĩa tư nhân. Chính vì thế, sự sở hữu cá nhân là một thuộc ngữ không gây được thiện cảm cho người Việt Nam trong một giai đoạn dài, đặc biệt giai đoạn lịch sử chính trị của đất nước trước những năm 1986. Trung tâm Đại học dân lập Thăng Long là trường đầu tiên thực nghiệm mô hình cho toàn quốc về đại học tự chủ tài chính, không xin kinh phí Nhà nước. Mặc dầu ra đời vào năm 1988, nhưng những ảnh hưởng của xã hội về mặt tâm lý vẫn còn, việc ghi nhận quyền “tư hữu” vẫn còn vấp phải sự chống đối nhất định, chính vì vậy chữ dân lập được sử dụng nhằm thể hiện Trường không phải là công lập do Nhà nước thành lập và đồng thời để tránh chữ tư thục gắn với quyền tư hữu mà thời đó xã hội chưa chấp nhận.
Với cái nhìn thông thoáng hơn, xóa bỏ những định kiến về mặt lịch sử và tạo điều kiện thuận lợi hơn cho việc phát triển hệ thống giáo dục quốc gia thì việc sự phân biệt giữa ĐHDL và ĐHTT là không còn cần thiết.
Do đó, Chính phủ Việt Nam đã ra quyết định chuyển đổi các trường ĐHDL thành ĐHTT[3], như vậy hiện nay ở Việt Nam chỉ tồn tại 2 mô hình đại học là Đại học công lập và Đại học tư thục.Sự khác nhau giữa hai mô hình trên được thể hiện ở các khía cạnh sau:
1. Cơ sở vật chất
Cơ sở vật chất trường Đại học tư thục thường khang trang và hiện đại hơn so với công lập, do tính tự chủ về tài chính nên lãnh đạo trường Đại học tư thục hoàn toàn chủ động đối với việc thay mới, sửa chữa, nâng cấp hoặc xây dựng bổ sung các tòa nhà mới phục vụ học tập.
Các trường Đại học công lập phụ thuộc vốn của nhà nước nên việc xin cấp vốn phải thông qua nhiều bước và khá phức tạp.
Đây là một sự khác nhau cơ bản nhất giữa trường đại học công lập và đại học tư thục
2. Học phí
Không giống những trường đại học công lập, đại học tư thục không nhận được sự hỗ trợ về vốn của Nhà nước, nguồn tài chính để hoạt động của họ là từ học phí của sinh viên học tại trường, khách hàng và các khoản hiến tặng. Học phí tại các trường này có xu hướng lớn hơn nhiều so với trường đại học công lập.
3. Chương trình học
Nhằm mục đích thu hút được nhiều sinh viên, có thể tăng sức cạnh tranh với các trường Công lập, các trường Đại học tư thục ngoài trang thiết bị hiện đại, còn nỗ lực để thay đổi chương trình học theo hướng thực tế hơn. Nhiều trường tư thục còn tạo hệ đào tạo liên kết với các trường đại học, cao đẳng nước ngoài, để giúp sinh viên có được tấm bằng quốc tế ngay khi ra trường. Không những thế các bạn còn được tiếp xúc với môi trường học quốc tế ngay những năm còn ngồi trên ghế nhà trường. Vì thế các bạn sẽ có cái nhìn cởi mở hơn đối với các vấn đề được học.
4. Cơ hội việc làm
Một điểm khác nhau nữa giữa trường Đại học công lập và tư thục chính là cơ hội việc làm. Trong trường hợp các ứng viên không có sự khác biệt nhiều trong quá trình phỏng vấn, thông thường các doanh nghiệp trong nước sẽ ưu tiên các ứng viên đến từ các trường công lập Top đầu. Tuy nhiên các công ty nước ngoài thì lại không quan trọng vấn đề trường Đại học công lập hay Đại học tư thục, mà quan trọng vẫn là thực lực của ứng cử viên. Vì vậy các bạn đã và đang học trường dân lập không nên quá lo lắng về vấn đề này.
5. Tiêu chuẩn nhập học
Trường công lập thi tuyển rất gắt gao thông qua kỳ thi quốc gia. Trường tư thục thì có thể thông qua xét tuyển học bạ, và điểm thi THPT để tiếp nhận thí sinh đầu vào. Đây cũng là điểm khác nhau cơ bản giữa trường công và trường tư.
Nhiều phụ huynh cũng như nhiều bạn sinh viên đều nhất trí cho rằng, các trường dân lập chủ yếu có nguồn sinh viên chất lượng kém hơn, lười học và ham chơi hơn, khả năng tư duy không nhanh nhạy so với các bạn trường công lập.
Tuy nhiên, trên thực tế, có rất nhiều sinh viên học các trường đại học tư thục lại thành đạt hơn so với các bạn trường đại học công lập. Đa phần nguyên nhân vì các bạn ấy không chỉ biết có việc học, mà còn biết rất nhiều kiến thức thực tế, do trải nghiệm sống, do đi làm thêm từ khi còn ngồi trên ghế nhà trường. Điều mà nhiều bạn sinh viên công lập chỉ biết chăm chăm đèn sách không thể có được.
Policy for Disabled Students
Ngoài những tiến bộ nêu trên, hệ thống giáo dục ở Việt Nam còn quan tâm đến chế độ giáo dục dành cho người khuyết tật (sau đây viết tắt là NKT). Cụ thể, chế độ giáo dục đối với người khuyết tật được quy định tại chương IV từ Điều 27 đến Điều 31 Luật người khuyết tật năm 2010. Ngoài ra trong các pháp luật chuyên ngành khác cũng có các điều khoản quy định về giáo dục đối với NKT: Luật giáo dục (Điều 10, 26, 63, 82, 98); Luật bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em (Điều 41, Điều 52); Luật thanh niên (Điều 27, Nghị định số 49/2010/NĐ-CP ngày 14/05/2010 về miễn giảm học phí, hỗ trợ chi phí học tập và cơ chế thu, sử dụng học phí đối với cơ sở giáo dục thuộc hệ thống giáo dục quốc dân từ năm học 2010 – 2011 đến năm học 2014 – 2015; Quyết định số 23/2006/QĐ-BGDĐ ngày 22/5/2006 về giáo dục hòa nhập dành cho người tàn tật, khuyết tật do Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo ban hành…
NKT mặc dù có những khiếm khuyết trên cơ thể, tuy nhiên cũng như bao công dân khác trong xã hội, họ cũng có quyền được học tập – một trong những quyền hiến định quan trọng nhất mà Hiến pháp của bất cứ quốc gia nào cũng ghi nhận. Tất nhiên, do là nhóm đối tượng đặc biệt cần được sự quan tâm, trợ giúp của xã hội, mà vấn đề giáo dục đối với NKT cũng có nhiều điểm đặc thù riêng và do đó, cần có sự điều chỉnh riêng biệt của pháp luật. Ở Việt Nam, pháp luật về giáo dục đối với NKT được quy định tại nhiều văn bản pháp quy của Nhà nước, trong đó, cơ bản và quan trọng hơn cả là Luật Giáo dục năm 2005 và Luật Người khuyết tật năm 2010 cùng các văn bản hướng dẫn thi hành có liên quan. Có thể nói, đây là những quy định cơ bản nhất, làm nền tảng giúp cho các cơ quan nhà nước triển khai các chính sách, hoạt động cần thiết để xây dựng nền giáo dục phù hợp đối với NKT ở Việt Nam.
Như vậy, Việt Nam luôn chú trọng và mở rộng vấn đề giáo dục cho NKT, các quy định về giáo dục đối với NKT đều để đảm bảo cho NKT thực hiện các nhu cầu học tập để có kiến thức như những người bình thường khác; hỗ trợ và tạo điều kiện cần thiết để NKT có thể tham gia học tập; đề cao và khuyến khích giáo dục hòa nhập cộng đồng… Quy định về giáo dục đối với NKT bao gồm các quy định riêng về giáo dục đối với NKT; phương thức giáo dục NKT; trách nhiệm của chủ thể trong giáo dục đối với NKT.
Conclusion
Xã hội theo nghĩa rộng là bao gồm tất cả các mặt của đời sống, bao gồm: kinh tế, chính trị, văn hóa, tư tưởng, giáo dục….Mỗi một yếu tố trên đóng vai trò hết sức quan trọng trong việc hình thành và phát triển xã hội của một quốc gia. Điều đó cũng có nghĩa khẳng định không thể tách rời giáo dục khỏi đời sống xã hội; hay nói cách khác, giáo dục có bản chất xã hội. Chính vì lẽ đó, mà các nhà nghiên cứu lịch sử giáo dục và xã hội học Việt Nam đều khẳng định giáo dục là một nhân tố bảo đảm cho sự tồn tại và phát triển của xã hội, và không chỉ Việt Nam mà các quốc gia trên thế giới đều có sự quan tâm cũng như đầu tư thích đáng cho lĩnh vực này.
Tháng 4/2017
TS. Phan Thị Nhật Tài - ThS. Trần Tuấn Đạt
References
Ban Truyền thông ITPlus. (2016, May 13). http://itplus-academy.edu.vn/Su-khac-nhau-giua-truong-Dai-hoc-cong-lap-va-dan-lap-o-Viet-Nam.html. Retrieved from Viện CNTT - Đại học QG Hà Nội: http://itplus-academy.edu.vn/Su-khac-nhau-giua-truong-Dai-hoc-cong-lap-va-dan-lap-o-Viet-Nam.html
Huyên, K. (2016, May 30). Giáo dục Việt Nam trước thách thức thời hội nhập. Retrieved from Báo Lao Động: http://laodong.com.vn/lao-dong-cuoi-tuan/giao-duc-viet-nam-truoc-thach-thuc-thoi-hoi-nhap-556909.bld
Tài, P. T. (2012). Địa vị pháp lý trường Đại học tư thục tại Việt Nam.TP.HCM.
US Embassy. (2016, November 14). Việt Nam Xếp thứ 6 về Số Du học sinh ở Hoa Kỳ. Retrieved from Đại sứ quán và Tổng lãnh sự quán Hoa Kì tại Việt Nam: https://vn.usembassy.gov/vi/pr20161114vn/
[1]Điều 1 của Quy chế về trường đại học dân lập ban hành kèm theo QĐ số 86/2000/QĐ – TTg của Thủ tướng Chính phủ
[2]Căn cứ vào những quy định pháp luật có liên quan, cụ thể căn cứ tại mục c khoản 1 Điều 48 Luật giáo dục 2005 (sửa đổi, bổ sung 2009) có quy định “trường tư thục do các tổ chức xã hội, tổ chức xã hội – nghề nghiệp, tổ chức kinh tế hoặc cá nhân thành lập, đầu tư xây dựng cơ sở vật chất và bảo đảm kinh phí hoạt động bằng vốn ngoài ngân sách nhà nước”; khoản 2 Điểu 1 của Quy chế Tổ chức và hoạt động của trường ĐHTT ban kèm Quyết định số 61/2009/QĐ-TTg ngày 17 tháng 4 năm 2009 của Thủ tướng Chính phủ thì chúng ta có thể khái quát về trường ĐHTT như trên
[3]Quyết định số 122 ngày 29 tháng 5 năm 2006, Thủ tướng Chính phủ
» Tin mới nhất:
» Các tin khác: