Những tài liệu nghiên cứu về sự truyền dẫn lãi suất ngân hàng theo tỷ giá hối đoái
Trong những thập kỷ trước một số lượng các bài nghiên cứu xem xét các đặc điểm của sự truyền dẫn lãi suất ngân hàng đã được tiến hành.Với sự ra đời của nhiều tổ chức kinh tế lớn trên thế giới cũng như là mức độ hội nhập ngày càng tăng, số lượng các nghiên cứu xem xét sự truyền dẫn của lãi suất thị trường đến lãi suất ngân hàng tăng đáng kể.Chú ý đặc biệt đã được đặt vào mức độ mà các ngân hàng trong các quốc gia theo một chế độ chính sách tiền tệ chung hoặc một chuẩn tiền tệ chung phản ứng không đồng nhất khi thiết lập lãi suất ngân hàng, trong trường hợp tác động của chính sách tiền tệ thông thường có thể là khác nhau giữa các quốc gia. Nói cách khác, hầu hết các nghiên cứu tập trung vào những câu hỏi liệu có một sự truyền dẫn không đồng nhất (cả về mức độ và tốc độ điều chỉnh) với lãi suất ngân hàng giữa các quốc gia, cũng như giữa các loại lãi suất khác nhau. Ví dụ, một số nghiên cứu tập trung vào loạt lãi suất tổng hợp đối với từng quốc giathường sử dụng một mô hình hàm vi phân sửa lỗi (ECM) để định lượng các động lực của sự truyền dẫn. Các nghiên cứu khác sử dụng dữ liệu ngân hàng vi mô áp dụng kỹ thuật bảng dữ liệu để kiểm tra các hành vi định giá của các ngân hàng riêng lẻ ở các nước. Các nghiên cứu trước đây cũng khác nhau đối với các không gian khác, chẳng hạn như khoảng thời gian được xem xét, nguồn dữ liệu và lựa chọn của biến lãi suất thị trường ngoại sinh.Về sau này, phần lớn các nghiên cứu sử dụng một lãi suất thị trường tiền tệ như là một biến ngoại sinh để đo lường sự truyền dẫn lãi suất ngân hàng. Thời gian trong những nghiên cứu trước trải rộng từ cuối 1970s đến năm 2002.Dữ liệu lãi suất ngân hàng cũng có sự khác nhau đáng kể
Có rất nhiều nghiên cứu như:
Whilst Paisley (1994) không tìm thấy sự dẫn truyền hoàn toàn trong lãi suất thế chấp ở tổ chức xây dựng Anh. de Graeve, F., de Jonghe, O. and Vander Vennet, R. (2004) phân tích pass-through lãi suất thị trường tiền tệ tới lãi suất bán lẻ ở mức độ phân tách trong thị trường ngân hàng Bỉ. Đầu tiên, chúng tôi đo lường mức độ của pass-through cho tổng cộng 14 sản phẩm. Chúng tôi thấy rằng phản ứng khác nhau qua khoản cho vay và tiền gửi và phụ thuộc tích cực vào sự trưởng thành của sản phẩm.Thứ hai, sự ra mắt của EMU thường không dẫn đến giá cả cạnh tranh hơn của các ngân hàng.Thứ ba, chúng tôi thấy rằng không đồng nhất trong hành vi định giá cần được hạch toán trong việc phân tích pass-through
Borio, C. E. V. and Fritz, W. (1995) so sánh phản ứng của lãi suất cho vay ngân hàng ngắn hạn với lãi suất chính sách trong một mẫu của 12 nước công nghiệp và tìm kiếm liên quan đến đặc điểm của hệ thống tài chính và môi trường chính sách. Mức độ cạnh tranh trong thị trường cho vay và tính rõ ràng của các tín hiệu liên quan với những thay đổi trong chính sách lãi suất sẽ xuất hiện trong những yếu tố có liên quan ảnh hưởng đến pass-through.Bài viết này là một phần của một nghiên cứu rộng lớn hơn xuyên quốc gia BIS về tác động của cơ cấu tài chính về cơ chế truyền dẫn.
Paisley (1994) và Heffernan (1997) kiểm tra mối quan hệ giữa lãi suất thị trường và lãi suất bán lẻ ở Anh thông qua mô hình hiệu chỉnh lỗi. Bài nghiên cứu cũng cho thấy thị trường ngân hàng bán lẻ là một trong những thị trường cạnh tranh không hoàn hảo phức tạp.
Heffernan, S. A. (1997), đề cập đến một mô hình sửa lỗi được sử dụng để nắm bắt sự biến động của lãi suất tiền gửi và cho vay của Anh với những thay đổi lãi suất cơ bản của ngân hàng trung ương. Thực nghiệm này được tiến hành bằng cách sử dụng một loạt lãi suất hàng tháng cho bốn sản phẩm ngân hàng bán lẻ chung trong giai đoạn 1986-1993. Quá trình điều chỉnh được tìm thấy khác nhau đáng kể giữa và trong các ngân hàng và các sản phẩm. Kết quả cho thấy thị trường này tiếp tục thể hiện nhiều tính năng cạnh tranh không hoàn hảo và sự điều chỉnh vấn đề khác biệt có thể ảnh hưởng đến tốc độ của cơ chế chuyển tiền.
Banerjee, A. (1999) nghiên cứu rằng, những phát triển gần đây trong lĩnh vực kinh tế lượng về dữ liệu bảng với chuỗi dữ liệu không dừng đã được xem xét và giải thích. Đặc biệt, họ thảo luận về kiểm định nghiệm đơn vị và đồng liên kết, và vai trò của trung bình và phương sai, sửa chữa điều chỉnh không tham số cho việc xây dựng các kiểm tra và ước lượng. Một cuộc thảo luận trong những đóng góp quan trọng của các nghiên cứu trong vấn đề này đặc biệt được đặt trong khuôn khổ của các tài liệu hiện nay và khu vực để phát triển hơn nữa .
Bondt (2002) kiểm tra mối quan hệ giữa lãi suất trái phiếu chính phủ và lãi suất huy động cũng như lãi suất cho vay trên cơ sở kỳ hạn phù hợp cho khu vực Euro. Ông ta tìm thấy rằng sự dẫn truyền là hoàn toàn cho hầu hết lãi suất cho vay nhưng không hoàn toàn lên tác động của cả lãi suất tiền gởi và một số lãi suất cho vay.
Hofmann và Mizen (2004) nghiên cứu 13 sản phẩm huy động và thế chấp của định chế tài chính tư nhân Anh sử dụng mô hình phi tuyến và tìm thấy sự dẫn truyền hoàn toàn cho lãi suất huy động nhưng không hoàn toàn cho lãi suất thế chấp.
Theo Stelios Karagiannis, Yannis Panagopoulos và Prodromos Valmis, (2010) Có hai lí do chính để giải thích cho sự điều chỉnh bất cân xứng của lãi suất bán lẻ để đáp ứng sự thay đổi lãi suất bán buôn là do hành vi của người tiêu dùng (hay lý thuyết phản ứng của người tiêu dùng – customer reaction hypothesis – là lý thuyết liên quan đến mức độ tinh tế của người tiêu dùng liên quan đến thị trường vốn). Người đi vay hoặc người gởi tiền càng tinh tế, ngân hàng càng miễn cưỡng thực hiện sức mạnh thị trường đến lợi ích của nó. Giả thuyết này cho thấy sự điều chỉnh bất cân xứng, với lãi suất cho vay là tăng nhanh còn lãi suất tiền gởi là giảm chậm. Đây là trường hợp mà ngân hàng hoạt động có tính cạnh tranh cao và nó lo sợ phản ứng tiêu cực từ khách hàng khi tăng lãi suất cho vay và giảm lãi suất tiền gởi và giả thuyết thông đồng giá của ngân hàng (bank’s collusive pricing hypothesis – lý thuyết cho rằng ngân hàng có khuynh hướng giảm lãi suất huy động và tăng lãi suất cho vay khi họ có khả năng thực hiện sức mạnh thị trường và điều chỉnh lãi suất có lợi cho mình). Trường hợp này thì lãi suất cho vay là giảm chậm và lãi suất tiền gởi là tăng chậm.
Kleimeier và Sander (2005) kiểm tra sự dẫn truyền trong thị trường bán lẻ của ngân hàng đối với khu vực đồng Euro và thấy rằng lãi suất cho vay phản ánh nhanh hơn đối với sự thay đổi trong chính sách tiền tệ dự đoán. Bài này cũng đã rút ra được một số kết luận như sau: lãi suất ngân hàng có “tính cứng” và có sự khác nhau cần xem xét trong sự dẫn truyền giữa lãi suất cho vay và lãi suất tiền gởi ở các ngân hàng khác nhau, cụ thể là lãi suất cho vay sẽ dẫn truyền nhanh hơn. Dẫn truyền là hoàn chỉnh nhất trong cho vay ngắn hạn doanh nghiệp và có sự khác nhau trong cơ chế dẫn truyền của các nước trong khu vực đồng tiền chung châu Âu.
Mark, N., Ogaki, M. and Sul, D. (2005),đề cập đến hồi quy bội đồng liên kết thường xuyên gặp phải trong công việc thực nghiệm như, ví dụ, trong việc phân tích các dữ liệu bảng. Khi các lỗi trạng thái cân bằng có tương quan đến phương trình hồi quy SUR có thể được áp dụng cho hồi quy đồng liên kết để có được ước lượng tiệm cận. Trong khi phương pháp phi tham số SUR đã được đề xuất trong lý thuyết, trong thực tế, đặc điểm kỹ thuật của vấn đề dự toán là không phải lúc nào cũng đơn giản. Họ đề xuất mô hình ước lượng DSUR, một mô hình có thể được thực hiện đầy đủ các tham số và tính toán đơn giản để sử dụng.Kỹ thuật ước lượng được áp dụng để phân tích hai vấn đề lâu dài về kinh tế quốc tế.Ứng dụng đầu tiên của họ đã xem lại vấn đề cho dù lãi suất kỳ hạn là yếu tố dự báo thiên của tỷ giá giao ngay trong tương lai.Ứng dụng thứ hai của họ đã xem lại vấn đề đánh giá mối tương quan giữa đầu tư và tiết kiệm quốc gia quốc gia dài hạn.
Harald Sander, Stefanie Kleimeier (3.2006) đã điều tra sự dẫn truyền lãi suất trong bốn khu vực thị trường tiền tệ thông thường (CMA) của các nước thuộc liên minh thuế quan Nam Phi (SACU) trong khoảng thời gian từ 1991 đến 2005. Kết quả của tác giả chỉ ra rằng các thị trường cho vay ngân hàng của CMA, sự dẫn truyền thường thường nhanh và hoàn toàn.Thị trường tiền gửi thì thường không đồng nhất hơn bằng việc thể hiện ra các mức độ khác nhau trong tính cứng của lãi suất và sự điều chỉnh không đối xứng trong một vài nước.
» Tin mới nhất:
» Các tin khác: