Ước tính khoản phải thu khó đòi trong kế toán Mỹ và so sánh với kế toán Việt Nam
ƯỚC TÍNH KHOẢN PHẢI THU KHÓ ĐÒI TRONG KẾ TOÁN MỸ VÀ SO SÁNH VỚI KẾ TOÁN VIỆT NAM
Giảng viên: Nguyễn Thị Kim Hương
Trong kế toán Mỹ, khi sử dụng phương pháp lập dự phòng khoản phải thu khó đòi, cuối mỗi niên độ, kế toán sẽ ước tính khoản phải thu khó đòi để lập dự phòng và tính vào chi phí. Việc ước tính khoản nợ phải thu khó đồi được tính toán dựa vào dữ liệu quá khứ, số trung bình ngành và dự đoán trong tương lại.
Có 2 phương pháp ước tính khoản phải thu khó đòi:
1. Phương pháp phần tram theo doanh thu
Khi doanh nghiệp phát sinh khoản doanh thu bán chịu, thì khoản phải thu khó đòi có thể được ước tính theo tỷ lệ phần tram doanh thu. Nếu như tỷ lệ giữa khoản doanh thu bán chịu và doanh thu là số không đổi thì tỷ lệ phần trăm sẽ được tính theo doanh thu hoặc doanh thu thuần.
Ví dụ tại 1 doanh nghiệp có số dư khoản phải thu khách hàng là $240.000, số dư của TK dự phòng phải thu khó đòi là 3,250 (bên Có), tổng doanh thu bán chịu là $3.000.000
Khoản phải khu khó đòi cần lập dự phòng và tính vào chi phí là (3/4 %) = 3.000.000 * ¾% = 22.500
2. Phương pháp phân tích khoản phải thu
Phương pháp phân tích khoản phải thu dựa trên cơ sở giả định rằng khoản phải thu khách hàng không được thu hồi sau khi đá quá hạn. Phương pháp phân tích khoản phải thu được tiến hành như sau:
Bước 1: Xác định thời hạn nợ cho mỗi khoản phải thu khách hàng
Bước 2: Xacd định số ngày quá hạn. Đây là số ngày được tính từ lúc quá hạn cho đến thời điểm phân tích
Bước 3: Mỗi khoản phải thu sẽ được ghi rõ tuổi nợ quá hạn theo các loại:
Không quá hạn
Quá hạn 1-30 ngày
Quá hạn 31-60 ngày
Quá hạn 61- 90 ngày
Quá hạn 91- 180 ngày
Quá hạn 181- 365 ngày
Quá hạn trên 365 ngày
Bước 4: Tính tổng khoản nợ quá hạn theo từng loại
Bước 5: Lấy tổng khoản nợ theo từng loại nhân với tỷ lệ phần trăm nợ khó đòi.
Bước 6: Tính tổng khoản nợ phải thu khó đòi bằng cách tổng khoản nợ phải thu của tất cả các loại.
Cả 2 phương pháp trên đều được sử dụng để ước tính khoản phải thu khó đòi. Tuy nhiên mỗi phương pháp sẽ tập trung vào những điểm khác nhau để làm nổi bật báo cáo tài chính.
Theo phương pháp phần trăm theo doanh thu, nhấn mạnh vào việc tính ra chi phí nợ xấu, Phương pháp này sẽ nhấn mạnh vào tính phù hợp giữa doanh thu và chi phí và theo đó thì thông tin này sẽ ảnh hưởng đến báo cáo kết quả kinh doanh. Số tiền cần lập dự phòng được dựa trên ước tính về chi phí nợ xấu trong kỳ và tài khoản dự phòng phải thu khó sẽ được ghi vào bên Có số tiền tương ứng.
Theo phương pháp phân tích khoản phải thu, tài khoản dự phòng phải thu khó đòi được chú trọng trong suốt quy trình. Phương pháp này sẽ ảnh hưởng đến chỉ tiêu giá trị thuần có thể thực hiện được do đó sé ảnh hưởng đến thông tin của bảng cân đối kế toán.
Ở Việt Nam hiện nay việc lập dự phòng phải thu khó đòi được tính toán và ghi chép theo quy định theo thông tư 89/2013/TT-BTC. Theo quy định này, mức trích lập dự phòng tính vào chi phí tại thời điểm cuối niên độ sẽ được tính toán theo phương pháp phân tích khoản phải thu. Cụ thể:
Doanh nghiệp phải dự kiến mức tổn thất có thể xảy ra hoặc tuổi nợ quá hạn của các khoản nợ và tiến hành lập dự phòng cho từng khoản nợ phải thu khó đòi, kèm theo các chứng cứ chứng minh các khoản nợ khó đòi nói trên. Trong đó:
Đối với nợ phải thu quá hạn thanh toán, mức trích lập dự phòng như sau:
+ 30% giá trị đối với khoản nợ phải thu quá hạn từ trên 6 tháng đến dưới 1 năm.
+ 50% giá trị đối với khoản nợ phải thu quá hạn từ 1 năm đến dưới 2 năm.
+ 70% giá trị đối với khoản nợ phải thu quá hạn từ 2 năm đến dưới 3 năm.
+100% giá trị đối với khoản nợ phải thu từ 3 năm trở lên.
Đối với nợ phải thu chưa đến hạn thanh toán nhưng tổ chức kinh tế đã lâm vào tình trạng phá sản hoặc đang làm thủ tục giải thể; người nợ mất tích, bỏ trốn, đang bị các cơ quan pháp luật truy tố, giam giữ, xét xử hoặc đang thi hành án hoặc đã chết … thì doanh nghiệp dự kiến mức tổn thất không thu hồi được để trích lập dự phòng.
Sau khi lập dự phòng cho từng khoản nợ phải thu khó đòi, doanh nghiệp tổng hợp toàn bộ khoản dự phòng các khoản nợ vào bảng kê chi tiết để làm căn cứ hạch toán vào chi phí quản lý của doanh nghiệp căn cứ vào điều khoản của Thông tư hướng dẫn trên, nếu thiếu những chứng từ đó, cơ quan thuế sẽ không chấp nhận chi phí dự phòng đã lập.