Tiêu chuẩn lựa chọn công cụ sàng lọc nhân viên (phần 1)
Khái quát hóa là định rõ mức độ mà tính hiệu lực của phương pháp tuyển chọn được thiết lập trong tình huống này làm ảnh hưởng đến tình huống khác.Có 3 loại tình huống chính yếu : những tình huống khác nhau ( các công việc và tổ chức), những mẫu người khác nhau, và những thời kỳ khác nhau .Cứ như độ tin cậy là cần thiết nhưng không đủ cho tính hiệu lực,tính hiệu lực là cần thiết nhưng không đủ cho tính khát quát .
Điều đó đã được biết rằng ,chẳng hạn các hệ số tính hiệu lực là cụ thể.Thì đó là mức độ của sự tương quan giữa trắc nghiệm và cách thực hiện khác nhau như khi một người từ tổ chức này đến tổ chức khác ,cho dù những công việc được nghiên cứu dường như y hệt nhau.Nghiên cứu tiếp theo đồng nhất rằng điều này là sai ở mức độ lớn.Đúng hơn là , những trắc nghiệm có xu hướng chỉ ra những mức độ giống nhau của sự tương quan thậm chí kéo qua cả những công việc mà chỉ có vài điểm giống nhau ( ít nhất cho trắc nghiệm về độ thông minh và khả năng nhận thức ) .Sự tương quan cùng với các loại trắc nghiệm thay đổi giống như một người từng trải qua những loại công việc khác nhau . Tuy nhiên ,theo một cách riêng biệt .công việc càng phức tạp thì tính hiệu lực của trắc nghiệm càng cao.
Người ta cũng biết rằng trắc nghiệm đã chỉ ra tính hiệu lực phân nhóm, cái mà là hệ số hiệu lực cho nhóm thực hiện thử việc là khác nhau đối với những chủng tộc khác nhau hay giới tính khác nhau . Lòng tin này đã bị bác bỏ bới nghiên cứu tiếp theo ,nhìn chung , những mức độ giống nhau của sự tương quan thường được phát hiện ra bởi những nhóm người khác nhau.
Bởi vì chứng cứ cho thấy rằng hiệu lực trắc nghiệm thường mở rộng thông qua các tình huống và phân nhóm , khái quát hóa tính hiệu lực có giá trị như sự lựa chọn có nhiều khả năng cho những phương pháp lựa chọn tính hiệu lực của những công ty nơi mà không thể giao việc liên quan đến tiêu chí và tính hiệu lực nội dung.Khái quát hóa tính hiệu lực là quá trình gồm 3 bước .Thứ nhất , công ty sẽ cung cấp chứng cứ từ những nghiên cứu tính hiệu lực liên quan đến tiêu chí kiểm soát những tình huống khác ,cái mà chỉ ra rằng những trắc nghiệm đặc biệt ( như trắc nghiệm tính kiên định cảm xúc ) là người dự đoán hợp lý cho công việc riêng biệt ( như y tá ở một bệnh viện lớn ). Thứ hai, công ty cung cấp chứng cứ từ những phân tích công việc đến các tài liệu mà công việc đang cần đáp ứng ( công việc y tá ở một bệnh viện nhỏ ) là giống như tất cả những khía cạnh chính đối với công việc ở trong những nơi hợp lệ ( y tá ở bệnh viện lớn ) .Cuối cùng , nếu công ty có thể chỉ ra rằng việc sử dụng trắc nghiệm đó là giống nhau và giống với việc sử dụng trong bối cảnh hợp lệ ,thì có thể “khái quát hóa” tính hiệu lực từ bối cảnh đầu tiên ( bệnh viện lớn ) đén bối cảnh mới ( bệnh viện nhỏ ).
Tính thiết thực là mức độ mà thông tin cung cấp bằng những phương pháp tuyển chọn nhằm làm nâng cao hiệu lực bottom-line của doanh nghiệp .Việc tiếp cận chiến lược đến quản trị nguồn nhân lực thay thế rất nhiều tầm quan trọng trong việc xác định giá trị tài chính của nguồn vốn nhân lực.Nhìn chung , phương pháp tuyển chọn càng nhiều tin cậy , hiệu lực , và khái quát thì tính thiết thực càng được thể hiện . Mặt khác , nhiều đặc điểm của những bối cảnh tuyển chọn riêng biệt làm nâng cao hoặc làm giảm giá trị từ lợi ích của những phương pháp tuyển chọn được đưa ra , thậm chí khi độ tin cậy ,tính hiệu lực và khái quát hóa là không đổi .
Nhiều nhân tố khác có liên quan đến tính thiết thực của trắc nghiệm. Ví dụ , giá trị của sản phẩm hay dịch vụ được đưa ra bởi công việc đương nhiệm đóng vai trò: sản phẩm hoặc dịch vụ càng có giá trị lớn thì việc tuyển chọn những người thực hiện càng có giá trị. Chi phí của trắc nghiệm, tất nhiên, nó cũng đóng vai trò nào đó. Nhiều trắc nghiệm tốn kém sẽ có ít tính thiết thực nếu chúng không đưa ra được nhiều dự đoán hợp lý. Những ví dụ gần đây về vấn đề này có thể thấy rõ trong ngành công nghiệp thử nghiệm ma túy. Mặc dù một ít người sẽ bất đồng về độ tin cậy và tính hiệu lực của việc thử nghiệm ma túy đúng đắn, những việc này có thể tương đối tốn kém, và những người chủ không sẵn sàng trả chi phí cho những thử nghiệm đưa ra lợi nhuận ngày càng tăng. Hầu hết những thử nghiệm thuốc chịu thua vài người lạm dụng thuốc .và một nghiên cứu đã chỉ rõ rằng tỷ lệ phù hợp của một thử nghiệm trong một khu vực của chính phủ liên bang ,nó tốn của chính phủ $77.000 cho 1 ca nghiện thuốc bị phát hiện. Vì vậy , mặc dù 70 phần trăm các công ty đang sử dụng việc thử nghiệm ma túy trong năm 1996, con số giống nhau là gần đến 60% ở năm 2003 do phần lớn nhằm trả lời những câu hỏi lợi nhuận giống như thé này.
Biên dịch: Lê Thị Khánh Ly
» Tin mới nhất:
» Các tin khác: