Phát hành cổ phiếu và kế toán phát hành cổ phiếu tại công ty cổ phần ở Mỹ (Phần 1)
Phát hành cổ phiếu và kế toán phát hành cổ phiếu tại công ty cổ phần ở Mỹ (Phần 1)
Hoàng Anh Thư
1. Sơ lược về các loại cổ phiếu phát hành
Ở Mỹ, một công ty cổ phần có thể phát hành hai loại cổ phiếu: cổ phiếu thường và cổ phiếu ưu đãi
Cổ phiếu thường:
Cổ phiếu thường là loại cổ phiếu cơ bản nhất mà một công ty cổ phần thường phát hành. Điều đó có nghĩa là nếu một công ty chỉ phát hành một loại cổ phiếu thì đó chính là cổ phiếu thường. Đi kèm với việc sở hữu cổ phiếu thường là quyền bỏ phiếu (voting right), quyền được chia cổ tức và quyền được phân chia tài sản khi thanh lý công ty. Tuy nhiên các quyền này ở cổ đông thường thường xếp sau các chủ nợ (creditors) và các cổ đông ưu đãi (preferred stockholders)
Cổ phiếu ưu đãi:
Để thu hút các nhà đầu tư có những mục tiêu khác với các cổ đông thường, công ty cổ phần có thể phát hành cổ phiếu ưu đãi. Cổ phiếu ưu đãi dành cho các cổ đông ưu đãi các ưu tiên về chia cổ tức và phân chia tài sản khi thanh lý công ty.
Để đáp ứng với quy định về công bố đầy đủ các thông tin, trên Bảng cân đối kế toán, phần Vốn chủ sở hữu (Shareholders’ Equity) phải cung cấp đầy đủ các thông tin về cổ phiếu. Trong phần vốn góp (Contributed Capital), kế toán phải liệt kê các loại cổ phiếu, mệnh giá các cổ phiếu và số lượng cổ phần được phép phát hành, đã phát hành và đang lưu hành.
Số lượng cổ phần được phép phát hành (authorized shares): là số cổ phần tối đa mà một công ty cổ phần được phép phát hành theo quy định tại charter do tiểu bang cấp cho công ty khi công ty được thành lập. Hầu hết các công ty đều được phép phát hành số cổ phần nhiều hơn số lượng mà nó cần vào buổi đầu thành lập. Do đó, trong tương lai các công ty có thể tăng vốn bằng cách phát hành thêm cổ phần mới. Khi công ty đã phát hành hết số lượng cổ phần được phép thì công ty không được phát hành thêm trừ khi có sự thay đổi về số cổ phần được phép phát hành trong charter.
Số lượng cổ phần phát hành (issued shares): là số cổ phần mà công ty bán hoặc chuyển (transfer) cho các cổ đông. Các cổ phần chưa phát hành không có bất cứ quyền nào cho đến khi nó được phát hành.
Số lượng cổ phần đang lưu hành (outstanding shares): là các cổ phần mà một công ty đã phát hành và vẫn còn đang lưu hành trong công chúng. Cổ phiếu quỹ không phải là cổ phiếu đang lưu hành bởi vì nó là những cổ phiếu mà công ty đã phát hành nhưng sau đó đã mua lại do đó nó đã bị rút khỏi việc lưu hành trên thị trường.
Do đó, số lượng cổ phần được phép phát hành luôn lớn hơn hoặc bằng số lượng cổ phần đã phát hành và số lượng cổ phần đã phát hành luôn lớn hơn hoặc bằng số lượng cổ phần đang lưu hành
Ví dụ: Google được phép phát hành 9 tỷ cổ phần, tuy nhiên trên thực tế nó chỉ phát hành 293 triệu cổ phần trong lần IPO. Do đó, trong tương lai Google còn nhiều cơ hội để phát hành thêm cổ phần mới.
2. Cổ phiếu ưu đãi
Cổ phiếu ưu đãi có một hoặc một số đặc tính sau: ưu đãi về chia cổ tức, ưu đãi về phân chia tài sản nếu thanh lý công ty, có thể hoán đổi và có thể mua lại. Một công ty có thể phát hành nhiều loại cổ phiếu ưu đãi khác nhau với những đặc tính khác nhau để hấp dẫn nhiều loại nhà đầu tư.
2.1. Cổ phiếu ưu đãi về chia cổ tức
Với loại cổ phiếu này, các cổ đông sở hữu cổ phiếu này phải được nhận cổ tức trước các cổ đông thường. Số tiền này thường được thể hiện là số $/ cổ phần hoặc một tỷ lệ % của mệnh giá cổ phần thường. Ví dụ, công ty có thể trả cổ tức thường niên là $4/cổ phần ưu đãi, hoặc công ty có thể phát hành cổ phần ưu đãi mệnh giá $50 và chi trả cổ tức thường niên là 8% mệnh giá, tức là cổ tức $4/cổ phần.
Tuy nhiên, không phải lúc nào cổ đông ưu đãi cũng chắc chắn sẽ nhận được cổ tức bởi vì điều này còn tùy thuộc vào việc công ty có lãi và hội đồng quản trị có công bố chi trả cổ tức hay không. Việc không chia cổ tức thường niên cho các cổ phiếu ưu đãi còn tùy theo cổ phiếu đó có phải là cổ phiếu tích lũy hay không tích lũy.
Trường hợp cổ phiếu ưu đãi không tích lũy: nếu hội đồng quản trị không công bố chi trả cổ tức cho một năm nào đấy thì số cổ tức không chia đó công ty không có nghĩa vụ phải chi trả trong những năm tiếp theo.
Ngược lại, trường hợp cổ phiếu ưu đãi tích lũy, cổ tức trên mỗi cổ phần sẽ được tích lũy từ năm này sang năm khác và công ty phải chi trả toàn bộ cổ tức đang bị hoãn lại (dividend in arrears) trước khi chi trả cổ tức cho các cổ đông thường.
2.2. Cổ phiếu ưu đãi có thể mua lại (Callable preferred stock)
Hầu hết các cổ phiếu ưu đãi là cổ phiếu ưu đãi có thể mua lại – điều này có nghĩa là công ty phát hành có thể mua lại hoặc rút cổ phiếu đó về với một mức giá quy định trong hợp đồng mua bán cổ phiếu ưu đãi. Cổ đông sở hữu cổ phiếu này phải bán lại cho công ty phát hành cổ phiếu khi công ty này yêu cầu. Nếu cổ phiếu ưu đãi là loại cổ phiếu có thể hoán đổi (convertible) thì chủ sở hữu cổ phiếu này có thể chọn một trong hai cách sau: một là bán lại cho công ty, hai là chuyển nó thành cổ phiếu thường khi công ty có yêu cầu mua lại. Giá mua lại (call price) thường cao hơn mệnh giá của cổ phiếu. Ví dụ, cổ phiếu ưu đãi có mệnh giá $100 có thể được mua lại với giá $103.
Khi cổ phiếu ưu đãi bị mua lại thì cổ đông có quyền được hưởng các số tiền sau:
· Mệnh giá cổ phiếu
· Tiền lãi mua lại (call premium)
· Tất cả các cổ tức chưa được chi trong các năm trước nếu có
· Cổ tức năm nay được tính bằng cách phân chia tỷ lệ thời gian tính đến ngày mua lại cổ phiếu
Công ty có thể mua lại cổ phiếu ưu đãi vì một trong những lý do sau:
· Công ty muốn chuyển cổ phiếu ưu đãi sang cổ phiếu thường vì cổ tức trả cho cổ phiếu ưu đãi cao hơn cổ tức trả cho số cổ phiếu thường có tổng giá trị tương đương
· Công ty muốn thay các cổ phiếu ưu đãi hiện có bằng các cổ phiếu ưu đãi mới có tỷ lệ cổ tức thấp hơn hoặc bằng khoản nợ vay dài hạn, nhờ vậy công ty sẽ có chi phí sau thuế thấp hơn
· Công ty đã có đủ lãi để có thể mua lại cổ phiếu ưu đãi
» Tin mới nhất:
» Các tin khác: