Lao động cưỡng bức - Nghiên cứu từ góc nhìn phát triển toàn diện (P.1)
Quan hệ lao động là quan hệ ở đó, người lao động sử dụng khả năng của mình để làm việc, còn người sử dụng lao động – sử dụng sức lao động của người lao động. Quan hệ lao động là loại quan hệ xã hội mang tính ý chí, được pháp luật lao động điều chỉnh và là một quan hệ thường xuyên thay đổi, do phải thay đổi theo tốc độ phát triển kinh tế - xã hội của quốc gia trong từng giai đoạn.
Quan hệ lao động luôn đề cao tính bình đẳng, nguyên tắc công bằng trong thỏa thuận khi thiết lập[1], và là quan hệ pháp luật song phương nên các bên không chỉ phải thực hiện quyền và nghĩa vụ của mình mà còn có trách nhiệm tạo điều kiện cho phía bên kia thực hiện tốt các quyền và nghĩa vụ của họ, trên cơ sở hài hòa lợi ích.
Tuy nhiên, thực tế quan hệ lao động mang tính bất bình đẳng vẫn được diễn ra, thậm chí là hiện nay khá phổ biến ở tất cả các quốc gia trên mọi lĩnh vực. Tác động của nền kinh tế thị trường đã đẩy mối quan hệ vốn ngang quyền, bình đẳng trở nên phụ thuộc và tạo nên vấn nạn đó chính là tình trạng lao động cưỡng bức.
Ngày nay, các quốc gia đang phải đối mặt với nhiều thách thức về quyền con người, trong đó có vấn đề về bạo lực gia đình, bạo lực và kì thị đối với phụ nữ, lao động trẻ em, buôn bán người, lao động di trú, lao động cưỡng bức…Có một giai đoạn, trên thực tiễn quyền con người hay còn gọi là nhân quyền được xem là vấn đề hoàn toàn thuộc thẩm quyền riêng biệt của mỗi nước, không chịu sự điều chỉnh của pháp luật quốc tế cũng như những đánh giá từ bên ngoài. Bởi lẽ, các quốc gia muốn tránh vấn đề nhân quyền trở thành nguy cơ gây bất ổn, là cơ hội dựa vào đó thế lực thù địch mở đường can thiệp, tác động vào nội bộ đất nước.
Đến những năm đầu của thế kỉ thứ XX, các quốc gia bắt đầu và dần thay đổi quan điểm trước những vấn đề toàn cầu đang diễn ra[2], đồng thời lúc bấy giờ các nước thừa nhận có những vấn đề nhân quyền tồn tại, liên quan nhiều quốc gia mà phải có sự hợp tác, liên kết mới có thể giải quyết, trong đó có vấn nạn về lao động cưỡng bức.
Tuy nhiên, khi đề cập đến vấn đề nhân quyền/quyền con người có rất nhiều định nghĩa khác nhau; trong đó định nghĩa quyền con người dưới góc độ quyền tự nhiên là được nhiều người, nhiều nhà khoa học, nhiều nhà nghiên cứu tiếp cận và thừa nhận; theo đó quyền con người là quyền tự nhiên, là thuộc tính vốn có mà không bị phụ thuộc vào sự ban phát, cũng như bị tước bỏ bởi bất kì ai như: quyền được sống, quyền tự do ngôn luận, quyền bất khả xâm phậm về thân thể…v.v. Còn dưới góc độ pháp lý, quyền con người được thể hiện và cụ thể hóa qua khung pháp lý các quy định pháp luật về quyền công dân. Vậy có thể hiểu:
+ Theo nghĩa rộng: Quyền con người là quyền gắn với đời sống cá nhân của một người, từ khi sinh ra cho đến khi mất.
Lịch sử phát triển của loài người đã chứng kiến nhiều thành tựu về kinh tế, về văn hóa, khoa học, kỹ thuật vv. Bên cạnh đó, khó có thể phủ nhận giá trị của quyền con người mà nhân loại đã đạt được. Giá trị xã hội của quyền con người được thể hiện qua những thuộc tính: tính phổ biến[3], tính không thể tước đoạt[4], tính không thể phân chia[5], tính liên hệ và phụ thuộc lẫn nhau[6]. Giá trị xã hội này được thừa nhận không chỉ pháp luật mỗi quốc gia mà cả pháp luật quốc tế.
Tuyên bố chung về quyền con người của Liên Hiệp Quốc 1948 đã khẳng định: “mọi người sinh ra đều được tự do và bình đẳng nhân phẩm và các quyền”[7]; “mọi người đều có quyền sống, quyền tự do và an toàn cá nhân”[8]; “mọi người đều có quyền được công nhận tư cách là con người trước pháp luật ở mọi nơi”[9].
+ Theo nghĩa hẹp:Quyền con người là những quyền công dân gắn với đời sống xã hội. Ở một quốc gia dân chủ, quyền con người được thể hiện trong các văn bản pháp lý, trong hệ thống pháp luật quốc gia do nhà nước ban hành và thừa nhận[10].
Rõ ràng, quyền con người và quyền công dân không đồng nhất nhưng có sự giao thoa và có mối liên hệ nhất định. Trong đó, khái niệm quyền con người rộng và bao quát hơn khái niệm quyền công dân. Quyền con người là quyền chung của tất cả mọi người đang sinh sống trên phạm vi toàn cầu, ai cũng đều có quyền như nhau, không phân biệt quốc tịch, không phụ thuộc vào biên giới quốc gia, bất kể sắc tộc, màu da, tôn giáo, văn hóa, địa vị xã hội…v..v..
Quyền công dân là tập hợp những quyền con người được pháp luật của một nước ghi nhận, mà chỉ những người mang quốc tịch của quốc gia đó mới được hưởng.
Quyền con người trong quan hệ lao động theo quy định pháp luật Việt Nam được thể hiện rõ nét ở các quyền sau: Quyền lao động ( Điều 49 Bộ Luật Dân sự 2005); Quyền làm việc, tự do lựa chọn việc làm và nghề nghiệp (Điều 5 Bộ luật lao động); Quyền thành lập, gia nhập, hoạt động công đoàn (Khoản 2 Điều 7 Bộ Luật Lao động 2012); Quyền đình công theo quy định của pháp luật ( Khoản 4 Điều 7 Bộ Luật Lao động);.
Năm 2007, Việt Nam chính thức trở thành thành viên WTO, sự kiện này đã giúp người lao động cơ hội tiếp cận công việc thu nhập cao, phù hợp với điều kiện bản thân không chỉ trong mà còn ngoài nước. Thế nhưng, tác động của nền kinh tế thị trường, nhiều đối tượng chạy theo lợi nhuận, bất chấp thủ đoạn đã khiến “thị trường lao động” xuất hiện những mặt trái. Cụ thể: mâu thuẫn, tranh chấp lao động ngày càng gia tăng với quy mô và số lượng lớn. Trong 5 năm (2008 – 2012) trở lại đây, ngừng việc tập thể, đình công lên đến 3016 cuộc[11] (tăng so với năm 2008: 762 cuộc ngừng việc tập thể, đình công, gấp 3,95 lần). Trên thực tế, “quyền con người” trong quan hệ lao động vẫn bị xâm phạm nghiêm trọng, trong đó có cả trẻ em[12] - đối tượng cần được bảo vệ, quan tâm chăm sóc đặc biệt. Một phần do nhận thức và hiểu biết của người dân về lao động trẻ em còn hạn chế; bên cạnh đó, sự suy thoái đạo đức trong nền kinh tế thị trường khiến nhiều người đã bóc lột và biến trẻ em thành công cụ lao động, kiếm tiền[13] cho họ.
Ở nước ta hiện nay, “trong tổng số 18,3 triệu trẻ em, có 2,83 triệu trẻ em (chiếm khoảng 1/6) đang tham gia vào hoạt động kinh tế. Trong đó có hơn 1.75 triệu lao động trẻ em làm việc trên 42 giờ/tuần”[14]. Căn cứ vào quy định và tiêu chí Công ước quốc tế về xóa bỏ lao động cưỡng bức, thì 1/3 đang bị lao động cưỡng bức.
Tốc độ tăng dân số[15] nhanh chóng của các nước đang phát triển, trong khi tốc độ tạo việc làm không kịp là vấn đề cấp thiết mà chính phủ các nước này luôn quan tâm. Bên cạnh đó, nền kinh tế toàn cầu hiện nay đang trong tình trạng suy thoái làm ảnh hưởng đến thị trường lao động trên toàn cầu. Một trong những tác động của sự suy thoái là ngày càng có nhiều người mất việc làm hoặc làm việc trong những điều kiện dễ bị tổn thương.
Dân số tăng nhanh khoảng thời gian từ 1997 – 2007 đã bổ sung thêm lực lượng lao động[16] nhưng cũng gây áp lực cho thị trường lao động Việt Nam. Vì thế, các công trình nghiên cứu về quan hệ lao động từ góc độ kinh tế - xã hội trong thời gian gần đây hầu hết tập trung vào vấn đề việc làm[17]. Bởi lẽ, việc làm – tăng trưởng kinh tế - thất nghiệp là ba vấn đề quan trọng hàng đầu của mỗi quốc gia.
Về mặt kinh tế: hiệu quả giải quyết việc làm gắn liền với hiệu quả sản xuất, thúc đẩy kinh tế phát triển và là động lực tăng trưởng kinh tế.
Về mặt xã hội: người thất nghiệp[18] càng nhiều, thì tỷ lệ tội phạm càng gia tăng, vì thế giải quyết việc làm là một trong những chính sách và là một trong những yếu tố quyết định để phát huy nguồn nhân lực và ổn định xã hội.
Tuy nhiên, người cần việc thì nhiều hơn công việc đang cần, nhiều người lao động muốn có được việc làm để nuôi sống bản thân và gia đình, họ phải chấp nhận mức lương thấp, điều kiện lao động không an toàn. Bên cạnh đó, người sử dụng lao động lợi dụng tình trạng yếu thế của người lao động, còn tước bỏ những quyền lợi cơ bản của người lao động như chế độ bảo hiểm y tế, bảo hiểm xã hội…
Khảo sát điều tra và phân tích của UNDP[19] để đánh giá Chỉ số công lý chỉ rõ, sự bất bình đẳng về việc tiếp cận thông tin và các dịch vụ pháp lý cũng đang là rào cản trong việc bảo đảm các quyền cơ bản của người dân trên thực tế, trong đó có quyền về việc làm. Căn cứ kết quả điều tra theo nhóm xã hội về việc tiếp cận thông tin như sau: phụ nữ là 0,863; học vấn thấp là 0,306; nghèo là 0,838; có vị thế xã hội là 1,843. Như vậy, khoảng cách bất bình đẳng về quyền và cơ hội thể hiện rõ trong nhóm những người có học vấn thấp, nhóm những người nghèo[20] và nhóm phụ nữ.
Tuy lao động cưỡng bức được tiếp cận, đánh giá là một trong những hệ quả và mặt trái của nền kinh tế thị trường, nhưng chưa có công trình nào nghiên cứu hệ thống vấn đề này. Các công trình, bài viết nghiên cứu trên có nói về sự tác động của nền kinh tế, mục tiêu tối đa hóa lợi nhuận là nguyên nhân và cưỡng bức lao động chỉ là một khía cạnh được đề cập.
Hiện nay có rất nhiều công trình nghiên cứu về lao động cưỡng bức trên thế giới, nhưng các nghiên cứu chính thức có tính quy mô nhất đều thuộc về Tổ chức lao động thế giới (ILO). Có thể kể đến Báo cáo của ILO về “Lợi nhuận và nghèo đói: Kinh tế học về lao động cưỡng bức”[21] như một bức tranh toàn cảnh về vấn đề lao động cưỡng bức hiện tại. Cuốn sách này tập trung nghiên cứu chỉ ra những nhân tố quan trọng điều chỉnh lao động cưỡng bức, phần lớn xuất phát từ nhu cầu thu lợi bất chính. Số liệu trong cuốn sách cung cấp gồm một phân tích thống kê về lợi nhuận theo lĩnh vực mà lao động cưỡng bức diễn ra và theo vùng địa lý. Ngoài ra, còn có các bài viết thường xuyên đăng và cập nhật trên website của chuyên gia ILO như: ILO (2005); Report I (B): A global alliance against forced labour;ILO (2012), 21 million people are now victims of forced labour; ILO (2012), Behind the figures: Faces of forced labour; ILO (2012), Questions and answers on forced labour…
Một tác phẩm nghiên cứu về lao động cưỡng bức khác đáng chú ý là “Human Rights and Migration: Trafficking for Forced Labour”. Đây là tập hợp các bài viết của nhiều tác giả về vấn đề lao động cưỡng bức tại nhiều quốc gia khác nhau, nhưng hầu như tập trung vào các quốc gia châu Âu như Thụy Điển, Đức, Ba Lan v..v... Phương pháp nghiên cứu của các tác giả trong tác phẩm này chủ yếu là phương pháp định tính với các tình huống (case study) để khái quát vấn đề muốn đề cập. Đối tượng nghiên cứu là những người nhập cư không theo quy định pháp luật nước sở tại, tức là nhập cư trái phép, với nhiều quốc tịch khác nhau như từ Nga, Afghanistan cho đến Mỹ Latin, thậm chí là Việt Nam[22]. Tuy nhiên, số lượng các đối tượng nghiên cứu là tương đối hạn chế, chỉ từ 11 đến 33 trường hợp được phỏng vấn và khảo sát nên vẫn chưa đủ để khái quát hóa vấn đề.
Một tác phẩm khác cũng viết về vấn đề lao động cưỡng bức cần tham khảo là cuốn chuyên khảo “Thị trường lao động toàn cầu – Từ toàn cầu hóa đến sự ứng biến”[23]. Các tác giả khác trong tác phẩm “Thị trường lao động toàn cầu – Từ toàn cầu hóa đến sự ứng biến” tiến hành nghiên cứu dựa trên cơ sở phương pháp định lượng thông qua việc chỉ ra mối quan hệ giữa nguồn lực lao động và hiện tượng lao động cưỡng bức ngày nay. Ví dụ: Bài viết của tác giả Stefan Zagelmeyer trong cuốn sách đã tận dụng rất hiệu quả cơ sở dữ liệu về nhân lực lớn[24] để đánh giá tác động của quá trình toàn cầu hóa đối với việc quản trị nguồn nhân lực. Tác giả Aviad Bar-Haim áp dụng phương thức điều tra khảo sát thông qua bảng câu hỏi và phân tích số liệu từ các câu trả lời để đưa ra đánh giá của mình đối với vấn đề quản trị nhân lực và sự phát triển của tổ chức. Tuy nhiên, các bài viết trong tác phẩm có phạm vi rộng, lại có xu hướng thiên về quản trị học nên tính chi tiết về mặt pháp lý và sự liên quan đến vấn đề lao động cưỡng bức không cao như các báo cáo của tổ chức ILO. (còn tiếp)
ThS. Phan Thị Nhật Tài, ThS. Trần Tuấn Đạt
[1]Trừ nhóm quan hệ lao động giữa cán bộ công chức với nhà nước, vì đây là quan hệ mệnh lệnh – hành chính, quan hệ đặc thù.
[2]Sự kiện Y2K, vấn đề đói nghèo, vấn đề ô nhiễm môi nhiễm, hiện tượng biến đổi khí hậu (ELNINO, LANINA), vấn đề sóng thần…
[3]Tính phổ biến về quyền con người được thể hiện ở đặc điểm quyền con người được ghi nhận ở mọi quốc gia, không phân biệt, phụ thuộc vào chế độ chính trị, kinh tế. Xem thêm GS.TS Võ Khánh Vinh, Giáo trình quyền con người, NXB Khoa học xã hội, Chương I: Quyền con người, khái niệm và bản chất.
[4]Tính không thể tước đoạt thể hiện ở chỗ, không ai có thể tước đoạt quyền người khác, trừ trường hợp pháp luật quy định vì họ có hành vi vi phạm pháp luật, xâm phạm đến quyền con người của người khác. Xem thêm GS.TS Võ Khánh Vinh, Giáo trình quyền con người, NXB Khoa học xã hội, Chương I: Quyền con người, khái niệm và bản chất.
[5]Tính không thể phân chia: con người ở những thời điểm lịch sử, hoàn cảnh khác nhau có những quyền được ưu tiên hơn, nhưng quyền con người là tổng thể tất cả các quyền, đan xen, gắn kết không thể tách rời được. Xem thêm GS.TS Võ Khánh Vinh, Giáo trình quyền con người, NXB Khoa học xã hội, Chương I: Quyền con người, khái niệm và bản chất.
[6]Tính liên hệ và phụ thuộc lẫn nhau của quyền con người: mỗi một quyền con người không tồn tại một cách biệt lập mà trong tổng thể, chúng vừa là tiền đề vừa là kết quả của nhau. Xem thêm GS.TS Võ Khánh Vinh, Giáo trình quyền con người, NXB Khoa học xã hội, Chương I: Quyền con người, khái niệm và bản chất.
[7]Điều 1 Tuyên bố chung về quyền con người của Liên Hiệp Quốc 1948.
[8]Điều 3 Tuyên bố chung về quyền con người của Liên Hiệp Quốc 1948.
[9]Điều 6 Tuyên bố chung về quyền con người của Liên Hiệp Quốc 1948.
[10]Xem thêm Phạm Thị Thùy Nga, Pháp luật lao động Việt Nam và việc bảo vệ quyền con người, Quyền con nguời – tiếp cận đa ngành và liên ngành luật học, tập 2, trang 149.
[11]Báo cáo của BCH Tổng liên đoàn Lao động Việt Nam khóa X tại ĐH Công đoàn Việt Nam lần thứ 11, trang 40.
[12]- Điều 1 Luật Bảo vệ, Chăm sóc và Giáo dục trẻ em 2004: Trẻ em quy định trong Luật này là công dân Việt Nam dưới 16 tuổi.
- Tại Bộ Luật Hình Sự 1999 (sđ, bs 2009) Điều 12 quy định tuổi chịu trách nhiệm hình sự: Người từ đủ 16 tuổi trở lên phải chịu trách nhiệm hình sự về mọi tội phạm. Người từ đủ 14 tuổi trở lên, nhưng chưa đủ 16 tuổi phải chịu trách nhiệm hình sự về tội phạm rất nghiêm trọng do cố ý hoặc tội phạm đặc biệt nghiêm trọng. Tại Điều 112. Tội hiếp dâm trẻ em khoản 1 quy định: Người nào hiếp dâm trẻ em từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi, thì bị phạt tù từ bảy năm đến mười lăm năm. Điều 114. Tội cưỡng dâm trẻ em khoản 1 quy định: Người nào cưỡng dâm trẻ em từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi, thì bị phạt tù từ năm năm đến mười năm; Khoản 4. Cưỡng dâm người chưa thành niên từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi, thì bị phạt tù từ hai năm đến bảy năm.
Theo Luật BVCSGDTE và Bộ luật Hình sự thì có thể suy luận: trẻ em là người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi, người từ đủ 16 đến 18 tuổi gọi là người chưa thành niên.
- Khoản 1 Điều 3 Bộ Luật Lao Động 2012: người lao động là người từ đủ 15 tuổi trở lên, có khả năng lao động, làm việc theo hợp đồng, được trả lương và chịu sự quản lý, điều hành của người sử dụng lao động. Điều 161 Bộ Luật Lao Động 2012: người lao động chưa thành niên là người lao động dưới 18 tuổi.
Như vậy, Bộ Luật Lao động không có khái niệm về lao động trẻ em, trên cơ sở đối chiếu quy định Luật BVCSGDTE và BLHS, ta có thể hiểu lao động trẻ em là người lao động từ đủ 15 đến dưới 16 tuổi.
- Điều 18 Bộ Luật Dân Sự 2005: Người từ đủ 18 tuổi trở lên là người thành niên. Người chưa đủ 18 tuổi là người chưa thành niên. Và Người thành niên có năng lực hành vi dân sự đầy đủ (Đ19 Bộ Luật Dân Sự 2005, trừ trường hợp bị mất năng lực hoặc hạn chế năng lực hành vi dân sự).
Trên cơ sở phân tích các quy định pháp luật trên, vậy người chưa đủ 18 tuổi phải được chia ra làm 2 mốc với 2 khái niệm pháp lý khác nhau: giai đoạn dưới 16 tuổi gọi là trẻ em, giai đoạn từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi là người chưa thành niên.
Để xác định độ tuổi trẻ em một cách chính xác và thống nhất, những nhận định trên đều dựa trên sự suy luận mang tính cá nhân của nghiên cứu sinh. Do đó có thể nhận thấy, cần có sự thống nhất trong định nghĩa pháp lý về vấn đề này. Vì nguyên tắc pháp luật phải là những quy định đơn nghĩa, dễ hiểu, dễ áp dụng để mọi chủ thể có thể hiểu và vận dụng đúng pháp luật vào đời sống.
[13]http://citinews.net/phap-luat/bi-boc-lot-tan-te--4-phu-vang-tre-chay-tron-khoi-bai-vang-phuoc-son-BKL67WQ/
Seo Văn Viềng (SN 1995, quê ở bản Thau Đi, xã Bảo Nam), Cụt Văn May (SN 1998, bản Lưu Thắng, xã Chiêu Lưu), Cụt Văn Tuột, Cụt Buôn Hương (cùng quê huyện Kỳ Sơn, Nghệ An) hiện đang được một người dân ở thị trấn Khâm Đức (huyện Phước Sơn, Quảng Nam) cưu mang.
Theo các em kể, tháng 3.2014, thông qua một người dắt mối (không biết tên), các em được đưa vào bãi Muối (trong rừng sâu thuộc xã Phước Thành, Phước Sơn) làm thuê cho một chủ bãi vàng có biệt danh "Quang bớp", thuộc Cty TNHH Phước Minh (trụ sở tại thị trấn Khâm Đức).
Ngoài các em, còn có hàng chục lao động trẻ em khác. Các em phải làm 11 tiếng đồng hồ mỗi ngày dưới hầm sâu, lại ăn uống kham khổ, nhiều lần đau ốm nhưng vẫn bị "cai" bắt phải dậy đi làm. Các em được hứa trả lương 2,5 triệu đồng/tháng nhưng phải làm đủ 6 tháng mới được nhận tiền.
[14]ILO, Điều tra quốc gia về Lao động trẻ em 2012 – các kết quả chính, Hà Nội, 3/2014, trang 39.
[15]Tốc độ tăng dân số là sự gia tăng dân số của một nước trong một thời kì nhất định (thường là một năm) tính bằng phần trăm tổng dân số tại thời điểm đầu kì. Tốc độ tăng dân số là tổng chênh lệch giữa tỷ suất sinh và tỷ suất chết – gia tăng dân số tự nhiên và chênh lệch giữa số dân vào một nước và ra khỏi nước đó – tỷ lệ nhập cư ròng
[16] Theo Lê Kim Tiên, Nguyễn Thị Việt Hà, Nguyễn Thanh Tuấn, Nhữ Lê Thu Hương, Lê Đồng Tâm, Không chỉ là tăng trưởng kinh tế, NXB Văn hóa Thông tin, Hà Nội, 2006, trang 144: Lực lượng lao động là tất cả những người hoạt động kinh tế trong một nước trong độ tuổi từ 15 đến 65, kể cả những người có việc làm, người thất nghiệp và thành viên của các đơn vị lực lượng vũ trang, nhưng không tính sinh viên và những người làm các công việc dịch vụ chăm sóc không được trả lương như nội trợ. Theo Báo cáo Điều tra lao động và việc làm Việt Nam 2011, Bộ Kế hoạch đầu tư, Hà Nội, 2012: lực lượng lao động là bộ phận dân số cung cấp hoặc sẵn sàng sức lao động cho sản xuất của cải vật chất và dịch vụ. Lực lượng lao động còn có tên gọi khác là “dân số hoạt động kinh tế”.
[17]Khoản 1 Điều BLLĐ 2012: việc làm là hoạt động lao động tạo ra thu nhập và không bị pháp luật cấm. Có thể phân thành: (1) Việc làm được trả công: bằng tiền hoặc các hình thức khác mà người nhận tiền lương, tiền công… phải hoàn thành trong một thời gian nhất định với yêu cầu cụ thể về số lượng, chất lượng công việc do người hoặc nơi trả lương, trả công quy định mà không phân biệt người đó hoặc nơi đó là cá thể hay cơ quan, doanh nghiệp. Hợp đồng lao động (bằng giấy hoặc thỏa thuận miệng) cho phép họ được nhận tiền lương, tiền công cơ bản mà khoản thu nhập này không phụ thuộc trực tiếp vào kết quả hoạt động của cơ quan/đơn vị nơi họ làm việc. (2) Việc tự làm: là các công việc mà thu nhập phụ thuộc trực tiếp vào lợi nhuận thu được từ hoạt động sản xuất hàng hóa và dịch vụ. Việc tự làm gồm các công việc tự làm của bản thân để tạo thu nhập hoặc làm cho kinh tế hộ của gia đình mình không hưởng tiền lương, tiền công.
[18]Thất nghiệp được xác định căn cứ vào 03 tiêu chuẩn: hiện không có việc làm, đang tìm kiếm việc làm và sẵn sang làm việc. Những người thất nghiệp là những người đã có những bước đi cụ thể để tìm việc làm và sẵn sàng làm việc. Các hoạt động tìm việc làm bao gồm: đăng kí tìm việc tại văn phòng việc làm của nhà nước hoặc tư nhân; nộp đơn xin việc đến người sử dụng lao động; kiểm tra, đọc và trả lời các mục quảng cáo tìm việc làm; tìm sự hỗ trợ từ những người bạn và người thân…
Những người không làm việc, sẵn sàng/có nhu cầu làm việc, nhưng hiện không tìm được việc do giãn việc, thời tiết xấu, công việc thời vụ, đang chuẩn bị để bắt đầu công việc mới, hoặc các hoạt động kinh doanh; bận việc gia đình, ốm đau tạm thời, tin rằng không tìm được việc làm do hạn chế sức khỏe, trình độ chuyên môn không phù hợp cũng được phân loại là người thất nghiệp.
[19]Bảng 8: Tiếp cận thông tin pháp luật theo nhóm xã hội, Chỉ số công lý, thực trạng về công bằng và bình đẳng dựa trên ý kiến của người dân năm 2012, Chương 3, trang 23.
[20]Nghèo được hiểu trước hết là sự thiếu thốn về vật chất, sống với mức thu nhập và tiêu dùng thấp, điển hình là tình trạng dinh dưỡng kém và điều kiện sống thiếu thốn. Nghèo về thu nhập luôn kéo theo tình trạng nghèo về xã hôi, tức những người nghèo thường dễ bị tổn thương trước những sự kiện bất lợi, không có tiếng nói trong hầu hết các thể chế xã hội và sự bất lực trong cải thiện đời sống của cá nhân. Và đói là biểu hiện cùng cực nhất của nghèo khó. Hiện nay, hầu hết người nghèo sống ở Nam Á (40%), châu Phi Hạ XaHaRa (25%), Đống Á (23%).
Chuẩn nghèo quốc tế với mức thu nhập do Ngân hàng thế giới thiết lập nhằm xác định những ai trên thế giới là người nghèo đặt ở mức 1 đôla/người tính theo sức mua tương đương năm 1985 (PPP) (tương đương 1,08 đôla theo PPP năm 1993). Một người được coi là nghèo nếu người đó sống trong một gia đình mà thu nhập hoặc tiêu dùng hằng ngày chưa đến 1 đôla/người. Tuy nhiên, chuẩn nghèo ở các quốc gia có thu nhập thấp so với các nước có thu nhập trung bình và cao là khác nhau.
Xem thêm: Lê Kim Tiên, Nguyễn Thị Việt Hà, Nguyễn Thanh Tuấn, Nhữ Lê Thu Hương, Lê Đồng Tâm, Không chỉ là tăng trưởng kinh tế, NXB Văn hóa Thông tin, Hà Nội, 2006, trang 34 - 44.
[21]Profits and Poverty: The Economics of Forced Labour.
[22]Anker, Christien Van Den, and Ilse Van Liempt. Human Rights and Migration. New York: Palgrave Macmillian, 2012, trang 161-189.
[23]The Global Labour Market: From Globalization to Flexicurity
[24]Khảo sát về quan hệ của nhân viên tại nơi làm việc, tiếng Anh “Workplace Employee Relations Survey 2004”, gọi tắt là WERS2004.
» Tin mới nhất:
» Các tin khác: