Chất lượng giáo dục Đại học Việt Nam
Trong mười năm qua, giáo dục đại học Việt nam đã có sự thay đổi đáng kể về qui mô cũng như thành lập mới các trường đại học, học viện với sự đa dạng về loại hình và cải thiện về chất lượng (Kim D. Nguyen, Diane E. Oliver, Lynn E. Priddy, 2009). Theo thống kê của Bộ giáo dục và đào tạo, cả nước hiện nay có 386 trường đại học, cao đẳng vào năm 2011 với 306 cơ sở đào tạo công lập và 80 trường đại học, cao đẳng ngoài công lập. Con số này tăng lên 409 cơ sở giáo dục trong giai đoạn đầu năm 2012 (Hệ thông giáo dục Việt Nam,2012). Tuy nhiên, cơ hội cho giáo dục đại học Việt Nam là có hạn và việc kiểm soát chất lượng là vấn đề tồn tại trong hệ thống (Nuffic Nesco,2009). Viêc tăng lên liên tục về số lượng không chỉ các trường công lập mà còn bao gồm các trường đại học, cao đẳng ngoài công lập với 322 cơ sở vào năm 2006 tăng đến 406 cơ sở năm 2012, điều này gây ra thách thức cho việc đảm bảo chất lượng. Thực tế chỉ ra rằng, năng lực của giảng viên khá thấp, co sự chênh lệch giữa các cơ sở giáo dục đại học (Nuffic Nesco Vietnam, 2009). Theo thông báo số 760 của Bộ Giáo Dục và Đào tạo (BGD&ĐT) năm 2009 chỉ ra rằng, rất khó để BGD&ĐT kiểm soát được tất cả các cơ sở giáo dục đại học trên khắp cả nước. Đặc biệt là các cơ sở ngoài công lập, vai trò quản lí của BGD&ĐT là rất hạn chế, chưa hiệu quả (Mai Lan,2011).
Mặc dù loại hình giáo dục đại học ngoài công lập đóng vai trò quan trọng trong sự phát triển hệ thống giáo dục Việt Nam trong thế kỉ 21 (Philip G. Altbach, 2009), giáo dục đại học ngoài công lập tại Việt Nam đang gặp khó khăn (Mai Lan, 2011). Trong một trả lời phỏng vấn, thứ trưởng BGD&ĐT Bùi Văn Ga cho rằng các nhà làm giáo dục đại học ngoài công lập nên tập trung cải thiện chất lượng nhằm tạo ra uy tín, danh tiếng trong xã hội, qua đó có cơ hội thu hút nhiều sinh viên hơn (giáo dục Việt Nam, 2011). Chất lượng giáo dục đại học là một trong những yếu tố quan trọng thu hút sự chú ý của xã hội và người học. Có sự thiếu đồng bộ trong sụ phát triển chất lượng giữa cơ sở công lập và ngoài công lập tại Việt Nam.
Trong hàng loạt vấn đề chất lượng, vấn đề nổi bật được nhiều người quan tâm trong giáo dục đại học giữa cơ sở công lập và ngoài công lập là học phí- học phí là số tiền mà người học hoặc gia đình người học phải trả nhằm đảm bảo các hoạt động vận hành trong trường Đại học- bởi vì cơ sở đại học ngoài công lập có quyền tự chủ hơn trong việc xác định mức học phí theo nghị định 49/2010/NĐ-CP của chính phủ ban hành ngày 14/5/2010, vì vậy học phí được xem là yếu tố chi phí phối đến quyết định của người học (Huy Lan, 2012). Thứ trưởng BGD&ĐT Bùi Văn Ga yêu cầu các tổ chức giáo dục đại học ngoài công lập cung cấp một cách rõ ràng mức học phí nhằm giúp người học đưa ra quyết định đúng về việc đăng kí và tránh những tình trạng không hài lòng sau này. Bên cạnh đó sinh viên cũng mong muốn chất lượng dịch vụ đào tạo phải được nâng cao tương xứng với mức học phí mà họ trả (Đỗ Hợp, 2012). Mối quan hệ giữa chất lượng dịch vụ đào tạo trong giáo dục đại học và học phí sinh viên phải trả cho dịch vụ đó cần phải được xem xét một cách thích hợp.
Theo tinh thần đổi mới căn bản và toàn diện giáo dục đại học trong giai đoạn 2006-2020 được nêu ra trong nghị quyết 14/2005/NQ-CP của chính phủ được ban hành vào ngày 2/11/2005, muc tiêu được nhấn mạnh là xây dựng và phát triển hệ thống đảm bảo chất lượng cho giáo dục đại học. Tuy nhiên, các nhà lãnh đạo và chuyên gia giáo dục còn lúng túng trong việc làm thế nào để thực thi đảm bảo chất lượng và kiểm định trong bối cảnh Việt Nam (Kim D. Nguyen, Diane E. Oliver, Lynn E. Priddy, 2009).
Cùng với sự phát triển giáo dục đại học về chất lượng và số lượng, sinh viên có nhiều sự lựa chọn cho việc học tập và sử dụng dịch vụ đào tạo. Khi sinh viên chi trả học phí đầy đủ, họ xứng đáng nhận được dịch vụ giáo dục tốt nhất nhằm thõa mãn nhu cầu của họ (N. Senthilkumar & A. Arulraj, 2010). Do đó, các cơ sở giáo dục luôn cố gắng thu hút người học bằng cách đưa dịch vụ giáo dục tốt nhất mức học phí hợp lí. Với những điều kiện như vậy, đề tài nghiên cứu mối quan hệ giữa chất lượng dịch vụ đào tạo, học phí và sự thõa mãn của sinh viên tại các cơ sở giáo dục đại học Việt Nam, đặc biệt trong trường hợp cụ thể giữa yếu tố công lập và ngoài công lập, sẽ rất hữu ích cho những nhà hoạch định, thực thi giáo dục đại học.
» Tin mới nhất:
» Các tin khác: