TRỞ NGẠI KINH TẾ CỦA DOANH NGHIỆP NHỎ VÀ VỪA TẠI VIỆT NAM
Các DNNVV thường phải đối mặt với 3 hạn chế cơ bản: (1) về khả năng, kỹ năng của người lao động (Clarke và Gibson, 1998; Ntsika, 2001); (2) thiếu khả năng quản lý (Megginson, Byrd và Meginnson, 2003; Kuratko và Welsch, 2004; Rwigema và Venter, 2004) và (3) khả năng tiếp cận thị trường, thị phần, hạn chế về nguồn vốn (Ntsika, 2001). Khi hội nhập quốc tế, cánh cửa thị trường rộng mở cũng đồng nghĩa với tính cạnh tranh càng gay gắt hơn, dẫn đến 3 trường hợp sau : (1) có khả năng cạnh tranh quốc tế, có thể thu lợi từ quá trình hội nhập, (2) hội nhập yếu, nên cải tiến năng lực sản xuất, đáp ứng các tiêu chuẩn quốc tế, cải tổ về mặt nhân sự để có thể tồn tại trong bối cảnh cạnh tranh gay gắt, Samad (2007) bổ sung trường hợp (3) doanh nghiệp được Nhà nước bảo trợ nên không chịu tác động nhiều của quá trình hội nhập. Nhiều nghiên cứu trước đều cho rằng hội nhập kinh tế mang lại cả cơ hội và thách thức cho các DNNVV (Hirschman, 1958; Rugman 1997; OECD, 2000; Macmillan, 2008; Oum và Narjoko, 2010; Rahman và Ramos, 2010; Parida, 2012; Spithoven, 2013). Tuy nhiên, do năng lực hạn chế nên các DNNVV khó tận dụng được những cơ hội từ quá trình hội nhập mà thường phải tập trung ứng phó với những thách thức lớn từ hội nhập. Đó là môi trường cạnh tranh khốc liệt, xuất phát từ những yêu cầu về kỹ thuật cũng như tiêu chuẩn chất lượng của các nhà sản xuất nước ngoài, các nhà nhập khẩu trong mạng lưới sản xuất, những vấn đề liên quan đến chính sách kinh tế vĩ mô như chính sách thuế, rào cản kỹ thuật và môi trường kinh doanh nói chung (Oum và Narjoko, 2010). Từ đây lộ rõ những yếu kém của DNNVV trong việc hiểu biết luật lệ, nắm bắt thị hiếu cũng như các yêu cầu, quy định của thị trường nước ngoài. Nhìn chung, DNNVV còn thiếu kỹ năng quản lý và kỹ thuật để đạt được hiệu quả cao (Rahman và Ramos, 2010). Ngoài ra, tiềm lực tài chính là một trong những rào cản lớn khi hội nhập của DNNVV (Oum vàNarjoko, 2010; Macmillan, 2008). Hạn chế tài chính gây khó khăn trong đầu tư cơ sở vật chất kỹ thuật, mở rộng sản xuất, tài trợ xuất khẩu (Rundh, 2007; Zhang, Sarker, 2008; Wengel và Rodriguez, 2006). Hơn nữa, điều đó ảnh hưởng quyết định đến hoạt động nghiên cứu và phát triển, thu hút nguồn nhân lực chất lượng cao, hạn chế khả năng sáng tạo của doanh nghiệp, thiếu kiến thức quản lý về quốc tế hóa và giảm giao dịch quốc tế (Macmillan, 2008). Ngoài những trở ngại do yếu tố chủ quan, DNNVV còn đối mặt với những khó khăn khách quan như vấn đề thủ tục hành chính, về rào cản kỹ thuật hay hàng rào thuế quan, sự khác biệt về văn hóa, môi trường kinh doanh, lĩnh vực hoạt động và khu vực địa lý sẽ tạo ra những thách thức khác nhau (OECD, 2009). Để DNNVV có thể khắc phục các trở ngại trên đòi hỏi sự hỗ trợ của chính phủ về tài chính, kỹ thuật, thủ tục hành chính hay những chính sách khuyến khích ưu tiên dành riêng cho các doanh nghiệp này. Do thiếu tài sản đảm bảo, hệ thống quản lý và tài chính mong manh, khả năng sinh lời không chắc chắn làm giảm khả năng tiếp cận vốn vay ngân hàng của các DNNVV (Shinozaki, 2012). Để gỡ nút thắt này, chính phủ cần phát triển các chương trình bảo lãnh tín dụng cho DNNVV, đưa ra các gói tín dụng lãi suất thấp giúp các doanh nghiệp này giảm chi phí tài chính, tăng đầu tư phát triển sản xuất. Bên cạnh đó, chính phủ cần đa dạng hóa nguồn thông tin, thông qua các cơ quan đại diện ở nước ngoài, thiết lập một hệ thống thông tin hội nhập, cải tiến các chương trình xúc tiến thương mại của chính phủ, tăng cường chất lượng nguồn lực thông qua hệ thống đào tạo chuyên nghiệp, đồng thời nâng cao tính minh bạch của môi trường kinh doanh (Oum và Narjoko, 2010). Do đó, việc nghiên cứu những trở ngại hiện có và nhận thức của DNNVV trong quá trình hội nhập sẽ giúp doanh nghiệp chuẩn bị tốt, giảm sự tác động tiêu cực bắt nguồn từ thương mại khu vực trong quá trình hội nhập.
» Tin mới nhất:
» Các tin khác: