Phân biệt hoạt động và báo cáo tài chính giữa doanh nghiệp thương mại và doanh nghiệp dịch vụ.
Hoạt động kinh doanh của một doanh nghiệp dịch vụ có nhiều điểm khác biệt so với doanh nghiệp thương mại. Sự khác biệt được minh họa trong báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh giữa hai loại hình doanh nghiệp này.
Doanh nghiệp dịch vụ Doanh nghiệp thương mại
Doanh thu cung cấp d.vụ $XXX Doanh thu bán hàng $XXX
Chi phí hoạt động -XXX Các khoản giảm trừ doanh thu -XXX
Lợi nhuận ròng $XXX Doanh thu thuần XXX
Giá vốn hàng bán -XXX
Lợi nhuận gộp $XXX
Chi phí hoạt động -XXX
Lợi nhuận ròng $XXX
Doanh thu mà doanh nghiệp dịch vụ kiếm được trong kỳ là kết quả của việc cung cấp dịch vụ cho khách hàng trong kỳ đó. Trên báo cáo kết quả kinh doanh của doanh nghiệp dịch vụ, doanh thu từ việc cung cấp dịch vụ được gọi là doanh thu từ phí dịch vụ (fees earned). Chi phí từ hoạt động kinh doanh (operating expenses) sẽ được trừ vào doanh thu phí dịch vụ để tính ra lãi ròng trong kỳ (net income).
Ngược lại, một doanh nghiệp thương mại bán buôn hoặc bán lẻ, kiếm lời bằng việc bán hàng hóa. Thuật ngữ “hàng hóa” dùng để chỉ việc mua đi bán lại. Doanh nghiệp thương mại trước tiên sẽ mua hàng về sau đó sẽ bán lại cho khách hàng để kiếm lời. Khi hàng hóa được bán, doanh thu từ việc bán hàng sẽ được ghi nhận là doanh thu bán hàng (sales) và chi phí mua hàng được gọi là giá vốn hàng bán (cost of goods sold), giá vốn hàng bán được ghi nhận là một chi phí. Đây là khoản chi phí rất quan trọng và phải được theo dõi riêng biệt với các chi phí hoạt động kinh doanh trên báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh. Lãi gộp được định nghĩa là phần còn lại của doanh thu thuần sau khi đã trừ giá vốn hàng bán. Nếu một doanh nghiệp thương mại muốn thành công hay thậm chí tồn tại thì doanh nghiệp phải định giá hàng hóa cao hơn giá vốn đã trả cho nhà cung cấp. Lãi gộp phản ảnh chênh lệch giữa giá bán của hàng hóa bán trong kỳ với giá phải trả để có được hàng hóa. Các nhà quản lý và các nhà đầu tư đều quan tâm đến lãi gộp vì lãi gộp phải cao hơn chi phí hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp nếu doanh nghiệp muốn có lãi ròng. Ngược lại, doanh nghiệp bị lỗ. Nếu mức lãi ròng không thỏa đáng, các nhà quản lý có thể xem xét thay đổi giá bán hay chuyển sang dòng hàng hóa khác.
Cuối kỳ kế toán, lượng hàng hóa mà doanh nghiệp có sẵn, sẵn sàng cho việc xuất bán được gọi là hàng tồn kho. Hàng tồn kho là một tài khoản tài sản ngắn hạn trên bảng cân đối kế toán. Lưu ý: hàng tồn kho không có nghĩa là hàng hóa đang ở trong kho.
Chu kỳ kinh doanh của doanh nghiệp thương mại
Chu kỳ kinh doanh của doanh nghiệp thương mại là thời gian bình quân kể từ khi mua hàng đến khi thu tiền về. Một chu kỳ kế toán bao gồm (1) Mua hàng, (2) Bán hàng, (3) Thu nợ các khoản phải thu. Chu kỳ kinh doanh của các doanh nghiệp thương mại thường ngắn hơn các doanh nghiệp sản xuất bởi vì hàng hóa mà các doanh nghiệp thương mại mua thường ở hình thức sẵn sàng cho việc bán lại cho khách. Tuy nhiên, những doanh nghiệp kinh doanh những mặt hàng khác nhau thì chu kỳ kinh doanh cũng dài ngắn khác nhau. Ví dụ, doanh nghiệp kinh doanh vàng bạc đá quý sẽ có chu kỳ kinh doanh dài hơn ở doanh nghiệp kinh doanh hàng thực phẩm đồ hộp. Doanh nghiệp có chu kỳ kinh doanh dài hơn thường có suất sinh lợi trên doanh thu cao hơn doanh nghiệp có chu kỳ kinh doanh ngắn. Doanh nghiệp kinh doanh vàng bạc đá quý thường định giá bán cao hơn chi phí mua vào từ 30% đến 50% trong khi doanh nghiệp kinh doanh thực phẩm đồ hộp có suất sinh lợi trên doanh thu thường chỉ ở mức 5%.
» Tin mới nhất:
» Các tin khác: