Yếu tố ảnh hưởng đến động lực làm việc của người lao động theo Học thuyết Maslow và Thuyết hai nhân tố
Theo Stephen Robbin, động lực làm việc của người lao động là những nhân tố bên trong kích thích con người nỗ lực làm việc. Biểu hiện của động lực là sự sẵn sàng nỗ lực, say mê làm việc nhằm đạt được mục tiêu của tổ chức cũng như của bản thân người lao động.
Động lực làm việc của người lao động bao gồm 3 thành phần chính:
- Sự cố gắng, nỗ lực (cườngđộcố gắng): con người cố gắng, nỗ lực cao như thế nào?
- Phương hướng của cố gắng đó: có mang lại lợi ích cho tổ chức không, có phù hợp với mục tiêu của tổ chức không?
- Sự kiên trì: con người có thể duy trì nỗ lực, cố gắng đótrong bao lâu?
Để tạo động lực cho người lao động, nhà quản trị phải hiểu được nhu cầu của họ. Từ đó có các chính sách, biện pháp đáp ứng nhu cầu, mang lại sự hài lòng cho họ, từ đó kích thích họ nỗ lực cao, kiên trì và đóng góp vào việc thực hiện mục tiêu của tổ chức, từ đó hướng tới đạt được mục tiêu cá nhân.
Có những học thuyết cơ bản về nhu cầu của con người, nhà quản trị có thể tìm hiểu để giải thích về nhu cầu con người theo đuổi trong quá trình làm việc, qua đó tìm ra biện pháp khích lệ tinh thần làm việc của nhân viên. Học thuyết cấp bậc nhu cầu của Maslow là học thuyết căn bản nhất giải thích về các nhu cầu của con người. Học thuyết này chia nhu cầu con người ra thành 5 cấp bậc từ thấp lên cao, thường được biểu diễn theo hình tháp từ thấp lên cao. Năm cấp bậc nhu cầu bao gồm: nhu cầu sinh lý, nhu cầu an toàn, nhu cầu xã hội, nhu cầu được tôn trọng, nhu cầu tự hoàn thiện. Theo thuyết nhu cầu của Maslow, con người theo đuổi các nhu cầu này theo trật tự từ thấp lên cao. Nhu cầu cấp thấp phải được thỏa mãn thì con người mới có động lực theo đuổi nhu cầu cấp cap hơn. Như vậy, muốn động viên người lao động, nhà quản trị phải nắm bắt nhân viên đang ở cấp bậc nhu cầu nào, để động viên vào nhu cầu đó, thì mới có tác dụng khích lệ sự nỗ lực của nhân viên.
Học thuyết thứ hai giải thích về yếu tố thúc đẩy con người nỗ lực làm việc, đó là thuyết hai nhân tố của Frederick Herzberg. Thuyết hai nhân tố chia các yếu tố tạo động lực cho con người ra thành hai nhóm: nhóm nhân tố duy trì, và nhóm nhân tố tạo động lực (nhân tố thúc đẩy). Nhóm nhân tố duy trì có liên quan đến các yếu tố tạo động lực từ bên ngoài của con người (thỏa mãn vào các nhu cầu bậc thấp). Nhóm nhân tố thúc đẩy bao gồm các yếu tố tạo động lực từ bên trong nội tại của con người. Hai nhóm nhân tố này được phân biệt qua cuộc nghiên cứu, và có ý nghĩa là, nhân tố duy trì liên quan đến tình trạng bất mãn hay không bất mãn của nhân viên. Trong khi đó, nhân tố thúc đẩy liên quan đến tình trạng nhân viên hài lòng hoặc không hài lòng. Tình trạng nhân viên bất mãn và nhân viên không hài lòng hoàn toàn là hai tình trạng khách nhau của người lao động. Các thành phần tạo động lực thuộc hai nhóm nhân tố này như sau:
Nhóm nhân tố duy trì |
Nhóm nhân tố tạo động lực |
Chính sách và việc quản lý của công ty Sự giám sát Quan hệ với cấp trên Điều kiện công việc Trả lương Quan hệ với đồng nghiệp Cuộc sống cá nhân Quan hệ với cấp dưới Địa vị An toàn |
Thành tích Nhận biết công việc Bản thân công việc Trách nhiệm Sự thăng tiến Sự phát triển bản thân |
Như vậy, theo học thuyết của Herzberg, để tạo động lực cho nhân viên, trước hết nhà quản trị phải đáp ứng tốt các chính sách liên quan đến nhóm nhân tố duy trì. Tuy nhiên điều này chưa có tác dụng tạo động lực. Muốn khích lệ nhân viên có nỗ lực cao trong công việc, nhà quản trị phải có biện pháp đáp ứng được các nhu cầu thuộc nhóm nhân tố thúc đẩy (còn được gọi là nhân tố tạo động cơ cấp cao).
Thúy Hải
» Tin mới nhất:
» Các tin khác: