Nike
Tạp chí Fortune có một bài viết gây sự kinh ngạc cho nhiều người về doanh số của công ty có tên là Nike vào năm 1994. Công ty này chuyên bán giày và quần áo dành cho việc chạy bộ. Tác giả của bài viết này nói rằng vào năm 1994 Nike hầu như thuê lao động ngoài quốc gia để thực hiện tất cả hoạt động sản xuất của nó. Mặc dù, phương pháp này có thể giúp Nike tiết kiệm được chi phí nhưng cùng lúc đó nó cũng đối mặt với một vấn đề quan trọng đó là nó đã không sử dụng nguồn nhân lực trong nước, và điều này có thể dẫn đến những vấn đề liên quan đến các mục tiêu xã hội của công ty. Tuy nhiên, công ty này cũng giống như Levis’s và Walmark ở chỗ nó cũng nghiêm cấm nhà cung cấp của nó sử dụng lao động phụ nữ và trẻ em làm việc trong những điều kiện vất vả.
Trong những năm đầu thành lập Nike chú trọng vào việc thiết kế và quảng bá cho sản phẩm giày thể thao và sau đó là quần áo thể thao. Nó bắt đầu hoạt động vào năm 1964 với tên là Blue Ribbon Sports (BRS), nhập khẩu giày chạy bộ từ thương hiệu Tiger của Nhật Bản. Người sáng lập ra nó là Phil Knight – một doanh nhân và Bill Brower – một huấn luận viên điền kinh của một trường trung học, họ đầu tư mỗi người 500 USD và bắt đầu làm việc như là những công việc phụ để kiếm thêm thu nhập, lúc này họ bắt đầu bằng việc sản xuất ra những cái đế giày. Chỉ sau một khoảng thời gian ngắn BRS đã phát triển nhanh chóng và có được một doanh số cao. Lúc này, Onitsuka, quản lý của Tiger đồng ý hợp tác với BRS trong tiến trình sản xuất của nó. Và năm 1972, ngỏ ý mua 51% của BRS để tìm kiếm lợi nhuận nhiều hơn từ khoảng doanh số 2 triệu USD của nó. Tuy nhiên, Phil Knight và Bill Brower đã từ chối nhã ý này.
PhilKnight vẫntiếp tụcthực hiện công việc như trước đây là nhập khẩusản phẩm từ Onitsuka. Sự khác biệt chính là những đôi giày bây giờ sẽ là thiết kế của Nike và sản xuất bởi nhà máy không thuộc sở hữu của công ty nhưng theo hợp đồng để đáp ứng tiêu chuẩn chính xác của Nike, điều này được biết đến như việc thuê gia công bên ngoài. Điều này mang lại cho công ty hai lợi thế lớn. Đầu tiên, nó không cần đầu tư xây dựng hoặc mua các cơ sở sản xuất riêng của mình, chính vì thể nợ dài hạn hầu như được loại bỏ. Thứ hai, nó có thể có được lợi thế chi phí sản xuất. Ví dụ, khi lao động Nhật Bản đắt đỏ hơn, Nike chuyển sang nhà máy ở Hồng Kông, Hàn Quốc, Trung Quốc, Singapore, Đài Loan, Indonesia, và Thái Lan.
Sự kết hợp củacác khoản thanh toán nợ với lãi suất thấpvà nguồn lao độngrẻmạt từ nước ngoàiđã cho Nike một lợi thế chi phí rất lớn so với nhiềuđối thủ cạnh tranh của nó, điều này cho phép công ty cung cấp một sản phẩm với chất lượng cao với giá cả hợp lý. Duy trìchất lượng là một vấn đề không dễ dàng với Nike khi mà các nhà máy sản xất không thuộc chủ quyền của nó mà chỉ thực hiện theo các tiêu chuẩn trong hợp đồng. Điều nàyđòi hỏi một quá trình làm việc cẩn thận trong các nhà máy sản xuất và giải pháp của Nike là gửi một hoặc nhiều đại diện của công ty đến làm việc tại các nhà máy sản xuất. Các chuyên giađã giúp Nike ở nhiều khía cạnh kinh doanh từ việc lắp đặt thiết bị cho đến đào tạo nhân công địa phương.
Cho đến khi việc kinh doanh vẫn diễn ra tốt đẹp, Nike vẫn cố gắng trong việc duy trì các mối quan hệ thân thuộc. Công tybổ nhiệm một người quản lý là dân địa phương, và một nhân viên của Nike thường là đến từ Mỹ. Phần việc của nhà quản lý địa phương là giám sátchất lượng và giải quyếtcác vấn đề liên quan đến sản phẩm hay là việc giao hàng. Theo Jouhn Woodman, Tổng giám đốccủa Nike ở Indonesiathì phần việc này đảm bảo rằng các hợp đồng phù hợp với các vấn đề về luật lao động của địa phương, thông qua đó công dân địa phương có thể thấy được Nikelà một doanh nghiệp tuân thủ pháp luật và điều đó thỏa mãn những vấn đề về xã hội tại địa phương.
Nikecũng đã thiết lậpcác chính sách vàthủ tục để khắc phục vấn đề tiềm năng. Một thành phần quan trọng là chương trình hướng đến tương lai của công ty trong đó Nike khuyển khích những nhà bán lẻ đặt hàng trước 5 tháng. Với chương trình này nhà bán lẻ sẽ nhận được một mức giá thấp hơn và ngày giao hàng được đảm bảo. Bằng cách này Nike có thời gian để chuẩn bị cho việc sản xuất của mình và giảm một lượng tồn kho tương đối lớn.
Ngoài ra, Nikeđã làm việc chặt chẽ với tàu chở hàng vàvới Hải quan Mỹ. Virginia Hopkirk, quản lý về Vận tải và Hải quan, thấy rằng “ Nike là người đi đầu trong việc xem xét dịch vụ khách hàng là quan trọng bằng cách giao hàng theo con đường này”. Hopkirk cũng chịu trách nhiệm trong việc làm cho các chuyến nhập khẩu và xuất khẩu của Nike được thông suốt thông qua hải quan Mỹ.
Sự phức tạp trong hoạt động của Nike ngày càng gia tăng. Công ty mở rộng quảng bá sản phẩm của mình đến Châu Âu và Châu Á. Tuy nhiên, hoạt động của Nike ở nước ngoài cũng có nhiều sự chỉ trích. Một trong số các tổ chức chống lại nó là viện Lao động tự do Á Mỹ, đó là một chi nhánh của AFL-CIO, cho rằng những nhà máy của Nike điển hình là ở Indonesia thì công nhân được nhận lương quá thấp. Ở đây, công nhân chỉ nhận được 1,06$ cho một ngày 7 giờ làm việc và đó là mức lương tối thiểu trong luật lao động ở Indonesia. Jonh Woodman, tổng giám đốc của Nike ở Indonesia nói: “Mặc dù họ nhận được mức lương thấp nhưng chúng tôi đến đây và mang lại cho các bạn hàng ngàn công việc nếu không thì những lao động này sẽ không có việc gì làm”. Một công nhân người Hàn Quốc- làm việc cho nhà máy ở Indonesia nói “Tôi hạnh phúc khi làm việc ở đây…Tôi có thể kết bạn và làm ra tiền”.
Biên dịch: Lê Thị Khánh Ly
» Tin mới nhất:
» Các tin khác: