Lao động cưỡng bức - Nghiên cứu từ góc nhìn phát triển toàn diện (P.2)
Trong Báo cáo Phát triển[1] con người 1996 của Liên Hiệp Quốc có nhấn mạnh “phát triển con người là mục đích cuối cùng, tăng trưởng kinh tế là phương tiện”, và chỉ ra mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế, vấn đề xã hội và môi trường[2] có mối quan hệ khăng khít. Thứ nhất: nếu thiệt hại về môi trường và xã hội/con người do tăng trưởng kinh tế gây ra lớn hơn so với lợi ích kinh tế thu được thì kết quả chung là phúc lợi của con người sẽ bị giảm. Do đó sẽ khó duy trì kiểu tăng trưởng kinh tế này xét về mặt chính trị. Thứ hai, bản thân tăng trưởng kinh tế tất yếu phải dựa trên (1) các điều kiện tự nhiên về khối lượng tài nguyên nhất định của tự nhiên, khả năng hấp thụ và tái tạo nguồn lực của nhiên nhiên và (2) xã hội/con người, phải có thêm nhiều lao động có khả năng thích ứng với các đổi mới về kỹ thuật và quản lý, sử dụng những lao động này một cách hiệu quả; công việc nhiều hơn và tốt hơn... như vậy phát triển con người chậm đồng thời sẽ chấm dứt sự tăng trưởng kinh tế nhanh.
Ở thập niên cuối thế kỉ 20, giai đoạn này các chuyên gia đã đưa ra khái niệm phát triển bền vững, chỉ ra mối quan hệ chính của các yếu tố kinh tế, xã hội và môi trường, theo đó phát triển bền vững là việc phát triển “đáp ứng được nhu cầu của hiện tại mà không gây hại đến khả năng đáp ứng nhu cầu của các thế hệ tương lai, trên cơ sở kết hợp chặt chẽ, hài hòa giữa tăng trưởng kinh tế, đảm bảo tiến bộ xã hội và bảo vệ môi trường”[3]. Phát triển bền vững còn gọi bằng một cách khác là phát triển bình đẳng và cân đối; có nghĩa để duy trì sự phát triển cần có sự cân bằng giữa lợi ích các nhóm người, lợi ích các thế hệ và thực hiện trên cả ba lĩnh vực quan trọng qua lại là kinh tế - xã hội – môi trường.
Tuy nhiên, khái niệm phát triển bền vững dường như chỉ tập trung chủ yếu vào vấn đề môi trường, trong nội hàm khái niệm, con người là mục tiêu cuối cùng nhưng chưa thực sự “tỏa sáng”. Bởi lẽ, mọi hoạt động xã hội đều bắt nguồn từ con người, muốn phát triển toàn diện thì đầu tiền phải phát triển nhân tố trung tâm là con người, phải giải phóng nguồn lực xã hội này. Và một trong những điều kiện tiên quyết để làm được điều đó, trước hết cần chấm dứt và xóa bỏ ngay lập tức lao động cưỡng bức.
Phát triển toàn diện là khái niệm và là một hướng tiếp cận mới của xã hội trong những thập niên đầu thế kỉ 21. Theo đó, phát triển toàn diện không chỉ gắn liền với việc cân bằng cán cân thanh toán quốc gia để đạt được những con số mong đợi về thương mại hay chỉ số tăng trưởng GDP ngày càng cao. Phát triển toàn diện là sự phát triển gắn với sự chuyển đổi toàn bộ các mặt xã hội, hướng đến việc đảm bảo đời sống “ấm no, hạnh phúc” của con người. Đây là ý tưởng mà các tổ chức phi chính phủ, Liên Hợp quốc, các thành viên của Hội đồng hỗ trợ phát triển của OECD…đang theo đuổi trong thời gian qua. Ý tưởng này bắt nguồn từ các bằng chứng sinh động từ việc không ít các quôc gia trên thế giới chạy đuổi theo tăng trưởng kinh tế, họ bất chấp mọi vấn đề nên phải trả giá bằng các vấn đề xã hội khác như tình trạng bất bình đẳng lớn hơn, thất nghiệp cao hơn, nền dân chủ yếu kém, đánh mất bản sắc văn hóa hoặc khai thác và sử dụng quá mức nguồn tài nguyên thiên nhiên cần thiết cho các thế hệ tương lai...
Để khắc phục tình trạng này, bên cạnh các giải pháp về kinh tế, việc sử dụng pháp luật để hạn chế và khắc phục các hậu quả của lao động cưỡng bức có ý nghĩa vô cùng lớn, nhất là đối với các nước chưa có được một nền pháp quyền đúng nghĩa như Việt Nam trong giai đoạn hiện nay.
ThS. Phan Thị Nhật Tài, ThS. Trần Tuấn Đạt
[1]Phát triển là gì? Như thế nào là phát triển là một câu hỏi khó trả lời. Vì thế các khái niệm quốc gia phát triển, quốc gia đang phát triển hay kém phát triển là khái niệm trừu tượng, khó hiểu hơn nếu so sánh với khái niệm nước giàu, nước nghèo. Bởi lẽ, khái niệm giàu - nghèo giúp nhận thấy tương đối rõ nét về tương quan nguồn lực sẵn có trong xã hội của các quốc gia. Các quốc gia cùng trình độ nhưng có sự rất khác biệt về chất lượng cuộc sống giữa con người quốc gia này với quốc gia kia là điều không có gì ngạc nhiên, vì nó phụ thuộc vào sự phân bổ và phân chia nguồn lực trong xã hội của từng quốc gia; và kết quả cuối cùng để đánh giá một xã hội, một quốc gia phát triển hơn so với quốc gia khác là căn cứ việc mang lại cho con người phúc lợi như thế nào.
Trong thời gian qua, các chuyên gia Liên hiệp quốc thường dùng chỉ số phát triển con người để đo lường sự phát triển của một nước. Chỉ số này là tổng hợp đơn giản của ba chỉ tiêu về: (1) y tế, tuổi thọ được do bằng số tuổi bình quân từ khi sinh; (2) giáo dục được do bằng tỷ lệ người biết chữ của người lớn cộng với tỷ lệ nhập học ở các bậc và (3) mức sống bình quân được đo bằng GDP bình quân đầu người tính theo sức mua tương đương. Điểm thuận lợi là chỉ số ngày giúp xác định thứ bậc các nước theo thành tích mà quốc gia họ đạt được, nhưng điểm bất lợi là không nhìn được tầm quan trọng của các yếu tố cấu thành khác nhau và không lí giải được vì sao chỉ số của một số nước lại có sự thay đổi theo thời gian. Ngoài ra, chỉ số xếp hạng về phát triển con người so sánh với chỉ số xếp hạng về thu nhập bình quan đầu người, không tương đồng. Ví dụ: năm 1999, Thụy Sỹ đứng thứ 6 về xếp hạng bình quân đầu người, đứng thứ 13 về chỉ số phát triển con người; Thụy Điển đứng thứ 28 về bình quân đầu người nhưng đứng thứ 6 về chỉ số phát triển con người; Canada đứng thứ 1 về chỉ số phát triển con người nhưng thu nhập bình quân đầu người đứng thứ 16. (Xem thêm: Bảng 15.1 Chênh lệch giữa xếp hạng theo GNP bình quân đầu người và theo chỉ số phát triển con người, Bộ tài liệu phục vụ học tập của Viện Ngân hàng thế giới, Không chỉ là tăng trưởng kinh tế, NXB Văn hóa thông tin, Hà Nội, 2005, trang116). Rõ ràng dùng chỉ số phát triển con người không thực sự chính xác để đo lường sự phát triển của một quốc gia, vì thế hiện nay nhiều chuyên gia đang tìm kiếm và nghiên cứu xây dựng tiêu chí mới để phù hợp và chính xác hơn.
[2]Môi trường được hiểu theo nghĩa thông thường là không gian sống của con người, được tạo thành bởi (1) các yếu tố tự nhiên như đất, nước, không khí, ánh sáng, âm thanh, hệ thực vật, hệ động vật…(2) các yếu tố do con người tạo ra như đê điều, công trình kiến trúc, công trình văn hóa…để phục cho nhu cầu con người.
Căn cứ Khoản 1 Điều 3 Luật Bảo vệ Môi trường 2014, môi trường là “hệ thống các yếu tố vật chất tự nhiên và nhân tạo, có tác động đối với sự tồn tại và phát triển con người và sinh vật”.
[3]Khoản 4 Điều 3 Luật Bảo vệ Môi trường 2014.
» Tin mới nhất:
» Các tin khác: