Bài 2: ĐÀU TƯ TRÁI PHIẾU KHÔNG LÃI SUẤT_BÀI HỌC TỪ TTCK MỸ (tt)
Thông thường, hễ nhắc đến trái phiếu người ta liên tưởng ngay đến món tiền lãi sẽ nhận được định kỳ. Thuật ngữ trong tiếng Anh gọi các món tiền lãi đó là "coupon". Theo thông lệ được nhiều nước áp dụng thì các trái phiếu coupon coupon bond nhận lãi mỗi sáu tháng một lần. Tuy nhiên, trong thị trường tài chánh và chứng khoán còn có các loại trái phiếu không nhận lãi. Các sản phẩm đặc biệt này, gọi là zéro- coupon bond, dù có những đặc điểm riêng nhưng không xa lạ, lại hữu ích trong một bối cảnh cần đa dạng mà bất cứ thị trường nào cũng có thể tham khảo áp dụng.
Đầu tư trái phiếu không lãi suất
Để có một nhận dạng đầy đủ hơn, cần biết rằng trong thị trường tài chính và chứng khoán còn có các sản phẩm tương tự nhưng không được gọi là zéro- coupon bond, thường là loại dưới một năm, mà người ta gọi bằng những tên khác nhau trong thị trường vốn ngắn hạn money market. Điển hình cho loại này là loại giấy nợ kho bạc Mỹ T- bill. Giới chuyên môn gọi đây là chứng khoán chiết khấu discount securities hay chứng khoán không chịu lãi non- interest bearing securities. Theo kỹ thuật chào bán trên thị trường chứng khoán, những sản phẩm đó cũng được nêu giá bằng phần trăm % chiết khấu. Đây là cách giúp người đầu tư đối chiếu tham khảo nhanh và cần thiết cho một thị trường đồng bộ. Nhưng nếu không nắm vững chúng ta lại dễ bị nhầm lẫn khi mới tiếp cận những sản phẩm này, dẫn đến phán đoán sai lệnh hoặc có thể bối rối.
Lấy một ví dụ để minh hoạ. Một giấy nợ kho bạc trị giá 1.000.000đ đáo hạn 91 ngày, bán theo suất chiết khấu và có giá bán theo số tuyệt đối là 975.000đ. Nhưng theo cách yết giá trên TTCK ta có thể nhận được thông tin đại loại như sau:
"…đáo hạn tháng 9, thu vào 9,99%, bán ra 9,89%"
Cần lưu ý giá thu vào bid và bán ra ask/offer ở đây là cách gọi theo nhà buôn chứng khoán, vì giống như thị trường vàng, khi diễn đạt "giá mua, giá bán" luôn phải xác định mình đang đứng ở phía nào.
Chúng tacó thể bị nhầm khi đọc và hiểu cách yết giá như vậy. Tại sao giá bán ra lại để là 9,89%? Không ít trường hợp do chưa quen, người đầu tư “mới ra sân" có thể nghĩ họ chỉ phải trả "901.100đ" thôi chứ! Quả thật, nếu là loại 52 tuần 1 năm thì điều đó không sai. Nhưng chúng ta nên lưu ý đây là loại 13 tuần 91 ngày, do đó cần có một phép tính quy đổi để thị trường có các thông số yết giá chuẩn đồng bộ theo năm. Bách phân giá yết bán 9,89% có từ phép tính sau đây:
1.000.000đ - 975.000đ / 1000.000đ x 360 / 91 = 9,89% giả định quy ước năm tròn là 360 ngày
Tuy nhiên thế vẫn chưa đủ, khi xem xét hiệu quả đầu tư, chúng ta cần tính lãi suất tương đương với trái phiếu dựa trên số tiền thực thụ bỏ ra, theo phép tính:
1.000.000đ - 975.000đ / 975.000đ x 360 / 91 =10,14%
Rõ ràng thu nhập từ đầu tư qua một thoáng tính toán như vậy có thể cho chúng ta một nhận định lạc quan hơn.
Việc phát hành các trái phiếu không nhận lãi có thể là do nhu cầu của các công ty cổ phần, hoặc chúng cũng có thể được tạo ra bằng một kỹ thuật kinh doanh tài chính của các công ty môi giới và kinh doanh chứng khoán. Chúng được "chế biến" từ các loại chứng khoán khác nhau, gồm cả các loại do nhà nước phát hành. Ở Mỹ các chính quyền địa phương và kho bạc nhà nước cũng từng tham gia phát hành loại này. Điển hình là loại STRIPS công cụ giao dịch thứ cấp theo lãi và gốc tách biệt mà ta đã có dịp khảo sát trong chuyên đề "Chứng khoán Chính phủ".
Một ví dụ về kỹ thuật tạo ra chứng khoán không nhận lãi. Vào những đầu năm 1980, nhiều định chế tài chính tại Mỹ sở hữu một lượng lớn các trái phiếu kho bạc nhà nước trả lãi định kỳ. Trong một bối cảnh kinh tế tài chính được dự đoán là có điều kiện khả dĩ tăng vòng quay vốn, họ đưa lượng tài sản này vào các ngân hàng thương mại quản lý. Các ngân hàng sau đó phát hành các chứng chỉ dựa theo các kỳ trả lãi cũng như trên đợt thanh toán lượng tiền gốc của mỗi trái phiếu. Theo cách như vậy, một tập hợp trái phiếu kho bạc bình thường được quy đổi sang nhiều loại trái phiếu không nhận lãi, mỗi loại có kỳ hạn hoàn trái khác nhau. Chẳng hạn, một công ty đầu tư có thể mua giữ một lượng lớn trái phiếu kho bạc T-bond 15 năm, và ngay sau đó họ ký thác lượng trái phiếu kia vào một ngân hàng thương mại. Ngân hàng thương mại với nghiệp vụ của mình sẽ thu xếp phát hành một loạt các zéro- coupon bond có thời kỳ đáo hạn thay đổi từ sáu tháng ngày trả lãi đầu tiên đến 15 năm ngày trả lãi cuối cùng và thanh toán tiền gốc. Như thế, các trái phiếu 15 năm có thể được quy đổi thành 30 loại trái phiếu không nhận lãi!
Ưu điểm đầu tư trái phiếu không lãi suất
Ưu điểm của việc đầu tư vào trái phiếu không nhận lãi là tránh được rủi ro về tái đầu tư, hay còn được gọi là rủi ro về lãi suất. Tuy đây chỉ là một ưu điểm tương đối trong phạm vi hẹp, nhưng ít ra nó giúp cho một số người đầu tư có cảm giác chắc chắn và an tâm. Lý giải đơn giản của lợi điểm này là tối thiểu tỉ lệ thu được ở tiền lãi do tái đầu tư sẽ bằng zéro, bởi vì trong thực tế làm gì có khoản tiền nào được trả lãi định kỳ để mà tái đầu tư ?. Điều này khác với trái phiếu thường, cứ sáu tháng nhận lãi thì phải tính đến hiệu quả tái đầu tư khoản tiền lãi đó để sinh lợi liên tục. Do đó mà có sự so sánh giữa lãi mẹ và lãi con.
Một thuận lợi khác, chứng khoán không nhận lãi xem ra rất hữu ích trong hoạch định tài chánh. Công cụ này cho phép ta có thể tính toán và lập kế hoạch tài chánh khá chắc chắn đo ta có được mức tăng giá trị cụ thể ngay từ đầu đối với một món tiền đầu tư. Chúng có vai trò đắc lực giúp bảo toàn và phát triển các nguồn tiền dài hơi, đặc biệt là các quỹ hưu trí, các tài khoản giám hộ…
Những điểm lợi mà chúng ta vừa nêu rất thuyết phục khi người đầu tư mua và giữ các trái phiếu phi lãi suất đó lâu dài và chờ hoàn trái khi đáo hạn. Trường hợp phải thanh lý ngắn hơn vì bất cứ lý do gì, người sở hữu chúng đều có thể bị đứng trước bất lợi. Kinh nghiệm của thị trường chứng khoán thế giới đã tổng kết và gọi đó là rủi ro về giá cả market risk. Bởi vì các trái phiếu không nhận lãi, nhất là loại dài hạn, có giá cả biến động theo một biên độ lớn, điều này làm cho người bán khó lòng thực hiện được sự tái tạo giá trị trở lại thành tiền tương đương với giá trị tích luỹ của trái phiếu tại thời điểm bán. Bản thân công cụ thiếu tính thanh khoản cũng là sự giải thích tại sao người đầu tư khi cần bán sớm và gấp không thể mong nhận được sự chào đón thoả đáng.
Với các phân tích trên đây hy vọng sẽ cung cấp thêm một nguồn tham khảo nữa để người đầu tư nắm vững và, nếu cần, thận trọng hơn khi tiếp cận với các loại chứng khoán đặc biệt.
Đình Uyên
» Tin mới nhất:
» Các tin khác: