Các lý thuyết về tiền tệ (phần 2)
3. Phái trọng nông:
Nếu như những người theo chủ nghĩa trọng thương đồng nhất tư bản với tiền tệ, thì Francois Quesnay cho rằng tiền là loại của cải phi hữu ích - nó không tạo ra gì cả.Francois Quesnay phê phán phái trọng thương là đã đánh giá quá mức tác dụng của tiền tệ. Theo ông, tiền tệ (vàng, bạc) không phải là của cải quốc dân, mà chỉ là phương tiện kỹ thuật trao đổi, chỉ làm cho sự vận động của của cải được thuận lợi mà thôi.
Vì vậy, đánh giá tác dụng của tiền tệ, Francois Quesnay hoàn toàn gạt bỏ tiền tệ ra khỏi của cải quốc dân của đất nước.
4. Adam Smith
Ông cho rằng tiền phát sinh là do những khó khăn về kỹ thuật trong việc trao đổi H-H.
Về quy luật lưu thông tiền tệ, ông chống lại thuyết số lượng tiền tệ và giải thích số lượng tiền tệ cần thiết cho lưu thông như sau :” không phải số lượng tiền tệ quyết định giá cả, mà giá cả quyết định số lượng tiền tệ” . Adam Smith cho rằng số lượng tiền tệ được quyết định bởi giá trị của khối lượng hàng hóa mà nó phải lưu thông . Giá trị hàng hóa mua vào bán ra hàng năm trong đòi hỏi một số lượng tiền tệ nhất định lưu thông và phân phối các hàng hóa đó vào tay của người tiêu dùng và không thể dùng quá số lượng đó được. Còn kênh lưu thông chỉ thu hút một cách tất yếu số lựơng thích đáng cho đầy đủ và không thể chứa đựng hơn nữa.
Tóm lại: A.Smith đã hình dung ra rằng tiền là một hàng hóa đặc biệt, tách ra khỏi thế giới hàng hóa thông thường để làm chức năng phương tiện lưu thông.
5. D.Ricardo:
Một mặt ông cho rằng, giá trị của tiền tệ do giá trị của vật liệu làm ra tiền quyết định , nó bằng số lượng lao động đã hao phí để khai thác vàng, bạc. Ông nêu lên khái niệm giá cả là biểu hiện bằng tiền của giá trị . Ông cho rằng tổng giá cả hàng hóa phụ thuộc giá trị của tiền tệ . Nếu vật liệu làm ra tiền đắt thì giá cả hàng hóa tụt xuống.
Mặt khác D.Ricardo cho rằng giá trị của tiền tệ phụ thuộc số lượng của nó. Nếu số lượng tiền càng nhiều thì giá trị của tiền tệ càng ít và ngược lại. Còn bản thân giá trị tiền tệ thì không có giá trị nội tại.
D.Ricardo coi tiền là phương tiện kỹ thuật của lưu thông, và cho rằng với giá trị nhất định của tiền, số lượng tiền trong lưu thông tùy thuộc vào tổng giá cả hàng hóa.
D.Ricardo sử dụng thuyết số lượng tiền tệ để giải thích cho sự thay đổi trong quan hệ quốc tế và điều tiết bảng cân đối thanh toán. Theo D.Ricardo, nếu trong một nước nào đó mà thừa vàng thì ở đó giá cả hàng hóa tăng và như vậy những hàng hóa nhập khẩu vào đây trở nên có lợi. Nhưng thiếu hụt trong bảng cân đối thương nghiệp sẽ được trả bằng vàng . Vàng đi ra khỏi nước , số lượng vàng giảm xuống , làm giá cả hàng hóa giảm , hàng hóa nhập khẩu từ nước ngoài sẽ giảm xuống và dừng lại. Tất cả trở lại trạng thái cân bằng. Từ đó D.Ricardo kết luận tụ do thương mại giữa các nước là có lợi.
Tóm lại: D. Ricardo nghiên cứu tiền ở chức năng phương tiện lưu thông của nó.
6. Quan điểm của K.Marx:
Tiền xuất hiện là kết quả của quá trình phát triển lâu dài của trao đổi và của các hình thái giá trị. Tiền tệ ra đời thì thế giới hàng hóa phân làm 2 cực: một phía là các hàng hóa thông thường, một phía khác là hàng hóa đóng vai trò tiền tệ.Tiền tệ có khả năng trao đổi trực tiếp để thỏa mãn hết thảy mọi nhu cầu của những người có tiền, còn tất cả các hàng hóa khác thì chỉ có thể thỏa mãn một nhu cầu nào đó mà thôi.
Bản chất của tiền tệ là hàng hóa đặc biệt dùng làm vật ngang giá chung cho tất cả các hàng hóa; nó là sự thể hiện chung của giá trị.
Tiền có 5 chức năng:
+Thước đo giá trị;
+Phương tiện lưu thông;
+Phương tiện tích trữ;
+Phương tiện thanh toán;
+Tiền tệ thế giới.
K.Marx nêu quy luật phổ biến của LTTT như sau : “Tổng số giá cả của hàng hóa chia cho số vòng lưu thông của các đồng tiền lưu thông cùng loại trong một thời gian nhất định = khối lượng tiền tệ làm chức năng tiện lưu thông .
» Tin mới nhất:
» Các tin khác: