Chính phủ điện tử
Chính phủ điện tử (E-Government) đã trở thành thuật ngữ bao phủ gần như tất cả các ứng dụng công nghệ thông tin và truyền thông (viết tắt là ICT) và làn sóng chính phủ
điện tử đang gia tăng nhanh chóng thông qua các tổ chức công và hoạt động quản trị công trên toàn thế giới (Fang, 2002). Chính phủ điện tử tạo điều kiện cho sự gia tăng tương tác giữa các cơ quan nhà nước và phục vụ người dân, doanh nghiệp. Theo đó, chính phủ điện tử tồn tại bốn dạng dịch vụ chính, bao gồm: trao đổi giữa cơ quan nhà nước với nhau (G2G), trao đổi giữa cơ quan nhà nước với doanh nghiệp (G2B), trao đổi giữa cơ quan nhà nước với người dân (G2C) và trao đổi giữa cơ quan nhà nước và cán bộ, công chức, viên chức (G2E) (Torres, Pina, & cerete, 2006; Fang, 2002; Bộ Thông tin & Truyền thông, 2015). Ngày càng nhiều nghiên cứu và nhà hoạch định chính sách tập trung vào các vấn đề khác nhau của chính phủ điện tử, cũng như tìm kiếm sự đồng thuận về sáng kiến và khung kiến trúc chính phủ điện tử (Martins & Veiga 2018; Rokhman, 2011; Torres et al., 2006; Tung & Rieck, 2005; Joia, 2004; Gupta & Jana, 2003). Trong khi các nghiên cứu trên thế giới về mối quan hệ trao đổi giữa cơ quan nhà nước với người dân được thực hiện phổ biến, thì nghiên cứu về mối quan hệ giữa các cơ quan nhà nước với nhau, giữa chính phủ và công chức, viên chức, đặc biệt là giữa chính phủ với doanh nghiệp vẫn còn ít học giả quan tâm. Tại Việt Nam, trong những năm qua, Đảng, Chính phủ luôn quan tâm, coi trọng triển khai xây dựng Chính phủ điện tử, đặc biệt trong việc thực hiện dịch vụ công trực tuyến giữa chính phủ và doanh nghiệp (G2B). Chính phủ đã triển khai một số dịch vụ công trực tuyến thiết yếu cho doanh nghiệp như: đăng ký doanh nghiệp, kê khai thuế, nộp thuế, hải quan điện tử, bảo hiểm xã hội…; một số bộ, ngành đã xử lý hồ sơ công việc trên môi trường mạng; tại một số địa phương, hệ thống thông tin một cửa điện tử được đưa vào vận hành, nâng cao tính minh bạch và trách nhiệm của đội ngũ công chức (Chính phủ, 2018). Việc xây dựng và hoàn thiện dịch vụ công trực tuyến giữa chính phủ và doanh nghiệp sẽ giúp môi trường kinh doanh cho doanh nghiệp ngày càng minh bạch và thuận lợi hơn, đặc biệt cải thiện cung cấp các dịch vụ công của ngành thuế, bảo hiểm, sẽ giúp môi trường đầu tư kinh doanh Việt Nam tăng hạng đáng kể (V V, 2018). Bên cạnh đó, việc áp dụng hiệu quả các dịch vụ công trực tuyến giúp doanh nghiệp tiết kiệm đáng kể chi phí nhân lực và thời gian cũng như các chi phí không chính thức khác (VEC M, 2018), cũng như gia tăng các lợi ích cảm nhận khác cho doanh nghiệp, thay đổi một số quy trình trong kinh doanh giúp doanh nghiệp nâng cao lợi thế cạnh tranh trong bối cảnh thương mại điện tử như hiện nay. Tuy nhiên, việc sử dụng dịch vụ công trực tuyến giữa chính phủ và doanh nghiệp(G2B) ở nước ta hiện nay vẫn còn nhiều hạn chế: các hệ thống thông tin dữ liệu còn cục bộ, chưa kết nối dữ liệu liên thông giữa các cơ quan Nhà nước, đặc biệt là kết nối dữ liệu của ngành thuế, hải quan và bảo hiểm xã hội chưa được thực hiện; dịch vụ công trực tuyến được doanh nghiệp sử dụng nhiều nhất là khai báo thuế, tiếp theo là dịch vụ đăng ký kinh doanh, các dịch vụ khác như khai báo hải quan, thủ tục cấp giấy chấp nhận xuất xứ điện tử, thủ tục tàu biển còn rất hạn chế. Theo số liệu mới nhất từ Hiệp hội Thương mại điện tử Việt Nam (VEC M, 2018) tính đến cuối năm 2017 tỷ lệ sử dụng dịch vụ G2B còn rất thấp, chỉ có 30% doanh nghiệp tra cứu thông tin trên các website cơ quan nhà nước năm 2017; việc giải quyết thủ tục hành chính và xử lý hồ sơ công việc còn mang nặng tính thủ công, giấy tờ, thậm chí có tới 27% doanh nghiệp điều tra chưa bao sử dụng dịch vụ G2B. Bên cạnh đó còn nhiều rào cản khác trong cơ chế đầu tư ứng dụng công nghệ thông tin; việc triển khai ở một số nơi còn mang tính hình thức; việc xây dựng triển khai các cơ sở dữ liệu quốc gia, hạ tầng công nghệ thông tin làm nền tảng phục vụ phát triển Chính phủ điện tử còn chậm; nhiều hệ thống thông tin đã triển khai còn chưa bảo đảm an toàn, an ninh thông tin (Chính phủ, 2018). Nhằm có cái nhìn tổng quát hơn về dịch vụ G2B nói chung, phần tiếp theo của bài viết sẽ trình bày sơ qua về khái niệm và mô hình chính phủ quản lý điện tử. Tiếp theo đó, để tìm hiểu sâu hơn về thực trạng sử dụng dịch vụ G2B, ngoài việc thu thập số liệu thứ cấp từ các nguồn báo cáo công khai của chính phủ cũng như từ Hiệp hội Thương mại điện tử Việt Nam, bài viết này còn sử dụng thêm số liệu từ việc phỏng vấn sâu 9 nhà lãnh đạo doanh nghiệp thuộc các lĩnh vực khác nhau trên địa bàn TP.HCM. Bên cạnh đó, việc phỏng vấn sâu còn nhằm thu thập thêm nhận định của doanh nghiệp về hiệu quả và những trở ngại chính khi sử dụng các dịch vụ G2B, từ đó đề xuất ra một số giải pháp nhằm hoàn thiện dịch vụ G2B cho chính phủ Việt Nam trong thời gian tới.
» Tin mới nhất:
» Các tin khác: