AEC với việc tự do dịch chuyển hàng hóa, dịch vụ trong khu vực ASEAN sẽ khuyến khích các hoạt động kinh doanh và đầu tư lớn hơn ở khu vực. Đầu tư trực tiếp nước ngoài gia tăng và các hoạt động kinh tế ở khu vực sẽ làm gia tăng nhu cầu tài chính và bảo hiểm của ASEAN. Các doanh nghiệp Việt Nam sẽ có cỏ hội đầu tư sản xuất kinh doanh, dịch vụ nhiều hơn ở các nước khác trong ASEAN. Mặt khác, AEC tạo lập một khu vực thị trường và sản xuất thống nhất, dẫn đến kinh tế của nhiều nước trở nên phồn vinh hơn, làm tăng số người tiêu dùng trung lưu với thu nhập cao là những khách hàng tiềm năng của các doanh nghiệp. Tham gia vào AEC, thị trường xuất khẩu hàng hóa của Việt Nam sẽ ngày càng mở rộng, có cơ hội thu hút nhiều vốn FDI, đặc biệt từ các nước có nền kinh tế phát triển cao hơn như Singapore, Malaysia. ASEAN hiện là đối tác thương mại quan trọng hàng đầu của Việt Nam và là động lực giúp Việt Nam duy trì tốc độ tăng trưởng và xuất khẩu trong nhiều năm qua. Quan hệ thương mại giữa Việt Nam và ASEAN có mức tăng trưởng cao. So với năm 2002, thương mại hai chiều Việt Nam và ASEAN năm 2013 đã tăng hơn 5 lần, chiếm gần 20% tổng kim ngạch xuất nhập khẩu của cả nước; nhịp độ tăng trưởng xuất khẩu trung bình sang ASEAN đạt 28,4%/năm và nhập khẩu đạt 27%/năm trong giai đoạn 2002 – 2013. Thời gian qua, cán cân thương mại của Việt Nam với khối ASEAN đã có sự thay đổi rõ rệt. Năm 2011, kim ngạch xuất, nhập khẩu của Việt Nam sang khối các nước ASEAN tương ứng là 13,5 tỷ USD và 20,9 tỷ USD thì con số này của năm 2013 là 18,4 tỷ USD và 21,3 tỷ USD. Điều này thể hiện khoảng cách giữa xuất và nhập của Việt Nam đã được rút ngắn và con số xuất khẩu cũng tăng vọt. Dự báo trước thềm AEC, xuất khẩu của Việt Nam sang ASEAN sẽ tiếp tục tang trưởng ổn định nhờ được hưởng ưu đãi thuế quan với tổng số trên 99% dòng thuế của ASEAN-6 là 0% theo Hiệp định ATIGA. Đây là thời điểm để các DNNVV hết sức linh hoạt, nhạy bén, sớm nhận diện và nắm bắt những lợi ích tiềm năng từ AEC để thúc đẩy khả năng tăng quy mô kinh tế không chỉ khối thị trường này mà còn với các thị trường khác; trong đó có các thị trường ASEAN đã ký các Hiệp định thương mại tự do (FTA) như Trung Quốc, Hàn Quốc, Nhật Bản, Ấn Độ, Australia và New Zealand.
Trong cơ cấu xuất khẩu của Việt Nam sang ASEAN những năm qua, có thể thấy hai mặt hàng xuất khẩu có kim ngạch và tỷ trọng lớn nhất là dầu thô (khoảng 40%), gạo (trên 10%). Như vậy có thể thấy rằng xuất khẩu của Việt Nam sang ASEAN chủ yếu là nông sản, hải sản và khoáng sản thô. Những mặt hàng nông sản, hải sản và khoáng sản thô tuy được hưởng thuế nhập khẩu ưu đãi CEPT tại các nước nhập khẩu nhưng do có giá trị thấp, giá cả phụ thuộc vào biến động trên thế giới, nên kim ngạch xuất khẩu không ổn định.
Với AEC, khi thuế suất giảm xuống 0%, các doanh nghiệp Việt Nam sẽ có điều kiện giảm chi phí, hạ giá thành hàng xuất khẩu. Theo quy định của ASEAN, các sản phẩm sản xuất có tỷ lệ “nội khối” 40% được xem là sản phẩm vùng ASEAN, sẽ được hưởng các ưu đãi khi xuất khẩu sang các thị trường khu vực ASEAN đã có FTA. Đây cũng là cơ hội để Việt Nam tận dụng các ưu đãi nhằm gia tăng năng lực cạnh tranh cho hàng hóa xuất khẩu trong nước sang thị trường khu vực.