TÁC ĐỘNG CỦA SỰ PHÁT TRIỂN THỊ TRƯỜNG TÀI CHÍNH ĐẾN LỰA CHỌN CẤU TRÚC VỐN CỦA DOANH NGHIỆP
Đặc điểm chung dễ nhận thấy trong đa phần các lý thuyết về cấu trúc vốn cũng như các mô hình nghiên cứu thực
nghiệm đó là các tác giả tập trung vào các yếu tố mang tính chất bên trong doanh nghiệp để đo lường cấu trúc vốn hợp
lý. Vì vậy, có ít hơn các nghiên cứu quan tâm đến các tác động của môi trường kinh tế vĩ mô đến các quyết định về cấu
trúc vốn của công ty (Hackbarth, 2006). Hicks (1969) và Levine (1997) kết luận rằng sự phát triển của thị trường tài
chính khuyến khích sự phát triển các doanh nghiệp sản xuất công nghiệp ở Anh, là động lực để gia tăng các cải tiền về
công nghệ và ngược lại, khi thị trường tài chính kém phát triển hơn sẽ không tạo ra nguồn vốn đầu tư và tăng trưởng
kinh tế. Từ các kết luận này, các nhà nghiên cứu đưa ra gợi ý rằng sự phát triển của thị trường tài chính là yếu tố quan
trọng tác động đến việc phân phối vốn từ các quỹ đầu tư đến doanh nghiệp, đa dạng hóa rủi ro, và tạo ra nguồn tài chính
cho các doanh nghiệp.
Chính từ sự liên kết các kết luận nêu trên tạo ra một gợi ý về tác động của sự phát triển thị trường tài chính đến
các quyết định về cấu trúc vốn của doanh nghiệp, đặc biệt là tại các quốc gia đang phát triển. Cụ thể hơn, đây chính là
một khe hở nghiên cứu thực nghiệm tại thị trường Việt Nam mà đề tài này cố gắng giải quyết thông qua việc kiểm định
mối quan hệ giữa sự phát triển của thị trường tài chính và cấu trúc vốn các doanh nghiệp niêm yết trên sàn chứng khoán
thành phố Hồ Chí Minh (HOSE). Việc xem xét về các tác động của các yếu tố thuộc về kinh tế vĩ mô đến các quyết
định quản trị tài chính của các doanh nghiệp được bắt đầu thực hiện trong thời gian gần đây và đề tài này có thể mang
tính mới tại thị trường Việt Nam và giúp ích các nhà quản trị doanh nghiệp có thêm cơ sở để lựa chọn cấu trúc vốn hợp
lý.
Agarwal & Mohtadi (2004) lập luận rằng sự phát triển của thị trường chứng khoán (thể hiện qua sự thay đổi giá
trị vốn hóa của thị trường) tạo ra nguồn lực hỗ trợ tài chính cho các doanh nghiệp tốt hơn, nghĩa là các doanh nghiệp có
thể sử dụng nhiều vốn chủ sở hữu hơn thông qua việc phát hành cổ phiếu và tăng tính thanh khoản cho cổ phiếu doanh
nghiệp
Kết quả nghiên cứu của Maksimovic & ctg (1995) về mối quan hệ giữa cấu trúc vốn và sự phát triển của thị
trường tài chính tại 30 quốc gia trong khoảng thời hạn 11 năm kể từ năm 1980 đến năm 1991 cho thấy có tồn tại một
mối quan hệ ngược chiều giữa sự phát triển thị trường chứng khoán và tỉ lệ nợ trong cấu trúc vốn của doanh nghiệp. Sự
gia tăng giá trị vốn hóa của thị trường chứng khoán chứng tỏ rằng thị trường chứng khoán giúp doanh nghiệp dễ dàng
huy động vốn chủ sở hữu thông qua phát hành cổ phiếu, tính thanh khoản của thị trường cũng giúp cho nhà đầu tư dễ
dàng góp vốn vào doanh nghiệp để trở thành chủ sở hữu. Chính điều này khiến cho các quyết định về cấu trúc vốn
nghiêng về việc sử dụng vốn chủ sở hữu nhiều hơn.
Tuy nhiên, các tác giả lưu ý đặc biệt rằng ở một số quốc gia có nền kinh tế chuyển đổi, tác động của sự phát triển
thị trường chứng khoán đến tỉ lệ nợ trong cấu trúc vốn của doanh nghiệp không phải là một tác động trực tiếp và khác
hẳn ở các quốc gia có nền kinh tế phát triển. Tại các nước có nền kinh tế chuyển đổi, đang phát triển trong mẫu nghiên
cứu, các tác giả nhận thấy sự phát triển thị trường chứng khoán lại có mối quan hệ cùng chiều với tỉ lệ nợ. Điều này
được giải thích là trong quá trình phát triển, các rủi ro kinh doanh được đa dạng hoá và hiện tượng bất cân xứng thông
tin giảm dần khiến cho các chủ doanh nghiệp thích sử dụng nhiều nợ hơn vì chi phí sử dụng nợ lúc này sẽ thấp hơn là
vốn chủ sở hữu.
Mark (2005) chỉ ra rằng tăng trưởng tín dụng là yếu tố quan trọng tác động đến cấu trúc vốn doanh nghiệp. Tỉ lệ
nợ của doanh nghiệp tăng lên khi mức tăng trưởng tín dụng tăng cao, thị trường tín dụng phát triển mạnh. Ngược lại
trong giai đoạn khủng hoảng tín dụng, doanh nghiệp sẽ rất khó khăn để tiếp cận được nguồn vốn đầu tư từ việc vay nợ.
Poon (2014) cũng đã đưa ra bằng chứng mới về tác động của việc gia tăng cung cấp tín dụng đến việc lựa chọn cấu trúc
vốn của các doanh nghiệp ở Trung Quốc. Nghiên cứu này chỉ ra rằng tỉ lệ nợ của các doanh nghiệp có quan hệ cùng
chiều với khả năng cung cấp tín dụng của các ngân hàng. Các doanh nghiệp bị hạn chế trong việc tiếp cận các khoản
vay từ ngân hàng sẽ ít có khả năng thay đổi cấu trúc vốn, và cấu trúc vốn của họ chủ yếu là vốn chủ sở hữu.
Như vậy, khi dư nợ tín dụng của nền kinh tế gia tăng nghĩa là khả năng cung cấp tín dụng của các ngân hàng
thương mại tốt hơn. Điều này có thể khẳng định số lượng doanh nghiệp sử dụng nợ vay tăng lên hoặc giá trị các khoản
nợ vay mà các doanh nghiệp tiếp cận và sử dụng được từ các ngân hàng thương mại tăng lên. Sau cùng sẽ khiến cho tỷ
lệ nợ vay trong cấu trúc vốn của các doanh nghiệp trên thị trường gia tăng.