Hệ thống tiền tệ quốc tế trước chiến tranh thế giới lần thứ nhất (1914)
Trong giao dịch thương mại với nước ngoài, mỗi nước đều đo lường giá trị hàng hóa và dịch vụ theo đơn vị tiền tệ của nước mình nên cần có một căn cứ chung mà các nước đều chấp nhận để so sánh giá trị của tiền nước này với giá trị của tiền nước kia và từ đó đo lường giá trị hàng hóa và dịch vụ bằng căn bản chung, đó chính là bản vị tiền tệ. Bản vị tiền tệ là các tiêu chuẩn chung mà mỗi quốc gia lựa chọn để làm căn cứ cho đơn vị tiền tệ của mình. Trong lịch sử, tiêu chuẩn chung đó có thể là hàng hóa, kim loại hay ngoại tệ.
Từ xa xưa con người dùng những vật dụng được xem là quý hiếm để làm vật ngang giá chung. Có nơi dùng vỏ sò, có nơi dùng muối cũng có nơi dùng xương, da thú, vật nuôi,… Tùy theo vùng mà người ta có vật ngang giá chung khác nhau. Tuy nhiên, vật ngang giá chung như thế chỉ mang tính khu vực nên khi phạm vi buôn bán vượt ra khỏi khu vực đó thì vật ngang giá chung đòi hỏi phải mang tính phổ biến cao hơn. Do đó, vàng và bạc được đúc thành khối theo những hình thức tùy ý và thực hiện chức năng là phương tiện trao đổi và lưu thông trong nền kinh tế. Dần dần vàng và bạc được tiêu chuẩn hóa và đúc thành tiền với những quy định cụ thể về hàm lượng kim loại, kí hiệu, nhãn mác,… Đây là cơ sở hình thành chế độ lưỡng kim bản vị vàng và bạc.
Trong chế độ bản vị vàng (Gold standard) hay bản vị bạc (Silver standard), người ta chỉ dùng bạc hay vàng đúc thành đồng tiền, theo một hình dáng và một trọng lượng nhất định và cho lưu hành trong nước như là đồng tiền chính thức, hợp pháp, là phương tiện thanh toán pháp định, có hiệu lực trên khắp lãnh thổ quốc gia.
Lúc khởi đầu, đặc điểm chung chế độ tiền tệ của một quốc gia dùng vàng hay bạc làm đồng tiền pháp định, đều giống nhau ở mọi nơi, đó là:
- Đơn vị tiền tệ được ấn định theo bạc hay vàng.
- Người dân được phép đem tiền đến ngân hàng đổi lấyvàng hay bạc theo tỷ lệ ấn định chính thức của chính quyền.
- Người dân được phép đem thỏi vàng hay bạc đến Sở đúc kiến để đổi lấy tiền đúc hầu như "miễn phí" hoặc có lúc phải trả một khoản chi phí đúc tiền.
- Cho phép vàng hay bạc được lưu thông tự do từ trong nước ra nước ngoài và ngược lại (do vàng và bạc lúc ấy được xem là tiền dự trữ quốc tế).
- Giá trị ghi trên bề mặt đồng tiền (mệnh giá) bằng giá trị của kim loại đúc thành tiền (vàng hay bạc cộng với một phần nhỏ kim loại cứng), ở quốc gia nào dùng bạc làm bản vị, sẽ được gọi là "đơn bảnvị bạc" (mono - métallisme argent) và ở nước nào dùng vàng làm bản vị, được gọi là"đơn bản vị vàng" (mono - métallisme or).
Thí dụ, năm 1775, đồng đô-la Mỹ được định nghĩa theo bạc như sau:
1 USD= 25,92 gam bạc ròng.
Chế độ lưỡng kim bản vị (Bimetallism) hay còn gọi là chế độ song bản vị (Double standard) là chế độ tiền tệ trong đó cùng một lúc có hai thứ kim loại (vàng và bạc) đóng vai trò làm vật ngang giá chung và là cơ sở của toàn bộ chế độ lưu thông tiền tệ của một nước. Chẳng hạn như, ngày 02/04/1792, đồng đôla Mỹ (USD) vừa được ấn định theo vàng, vừa được ấn định theo bạc như sau:
1 đôla vàng = 1,603.80 mg vàng ròng
1 đôla bạc = 24.06 g bạc ròng
Theo định nghĩa trên, 1 đôla bạc nặng gấp 15 lần 1 đôla vàng, hay nói khác, giá chính thức của một gam vàng bằng giá chính thức của 15 gam bạc ở Mỹ.
Nhìn chung, lúc khởi đầu, hệ thống lưỡng kim bản vị có 3 đặc điểm chủ yếu:
- Tự do đúc vàng và bạc thành tiền, tức là dân chúng có quyền đem thỏi vàng, bạc đến Sở đúc tiền để lấy một số tiềntương đương trị giá pháp định của số vàng hay bạc, có lúctrả phí đúc tiền.
- Tỷ lệ trao đổi giữa vàng và bạc được ấn định cố định.Theo ví dụ trên, 15 gam bạc đổi lấy 1 gam vàng ở Mỹ.
-Tiền vàng hay tiền bạc đều được chấp thuận trong tất cả các giao dịch mua bán, trả nợ,…, đó là tiền pháp định.
Chế độ lưỡng kim bản vị hoạt động trên cơ sở giá trị đầy đủ của những đồng xu (gọi là tiền đúc đủ giá), việc đúc tiền được duy trì đối với cả vàng lẫn bạc. Căn cứ quy cách về mối quan hệ trao đổi giữa tiền đúc bằng vàng và tiền đúc bằng bạc mà có thể chia chế độ song bản vị làm hai loại cụ thể:
Chế độ bản vị song song
Chế độ bản vị song song là chế độ song bản vị mà trong đó quy định tỷ lệ trao đổi giữa tiền vàng và tiền bạc trong lưu thông phụ thuộc vào giá trị thực tế của lượng vàng và lượng bạc chứa trong hai đồng tiền đó quyết định. Do đó, giá cả hàng hóa và dịch vụ trên thị trường tất nhiên được thể hiện bằng chỉ hai loại giá cả: Giá cả tính bằng tiền vàng và giá cả tính bằng tiền bạc. Hai loại giá cả này sẽ thay đổi theo sự thay đổi tỷ giá giữa kim loại vàng và kim loại bạc hình thành tự phát trên thị trường. Đặc biệt trong chế độ bản vị này, mọi người có thể tự đúc tiền. Việc giá cả của hàng hóa trong lưu thông được thể hiện bằng hai loại giá cả đã mâu thuẫn với vai trò làm thước đo giá trị của tiền tệ, chính đặc điểm này của chế độ bản vị song song đã tạo ra những rắc rối trong việc tính toán giá cả và lưu thông hàng hóa.
Trên thực tế, chế độ bản vị song song chỉ tồn tại trong thời kỳ đầu mới xuất hiện chế độ song bản vị. Để tạo cho thị trường có tính thống nhất trong việc lưu thông tiền tệ, nhà nước đã quy định tỷ lệ của đồng tiền vàng và bạc. Và do vậy, chế độ bản vị kép được hình thành.
Chế độ bản vị kép
Chế độ bản vị kép là chế độ song bản vị trong đó Nhà nước quy định cụ thể tỷ giá trao đổi giữa tiền đúc bằng vàng và tiền đúc bằng bạc. Lịch sử cho thấy, đến những năm 1870 khá nhiều quốc gia trên thế giới đã thực hiện hệ thống lưỡng kim bản vị. Đó là chế độ bản vị kép với hai kim loại quý là vàng và bạc được dùng để đảm bảo cho hệ thống tiền tệ tự do chuyển đổi. Như ở Anh, hệ thống lưỡng kim bản vị được thực hiện cho đến năm 1816 sau khi kết thúc cuộc chiến tranh Napoleon, khi đó quốc hội Anh đã thông qua đạo luật chỉ dùng Vàng làm đảm bảo cho hệ thống tiền tệ, hủy bỏ việc đảm bảo của bạc. Ở Mỹ đạo luật về hệ thống tiền tệ (The coinage Act) năm 1792 công nhận hệ thống lưỡng kim bản vị cho đến năm 1873, khi quốc hội Mỹ thông qua quyết định loại bỏ đồng Đôla bạc ra khỏi tiền lưu thông. Pháp cũng theo đuổi chế độ lưỡng kim bản vị từ thời cách mạng Pháp cho đến năm 1878. Một số quốc gia khác như Trung Quốc, Ấn Độ, Đức, Hà Lan lại đi theo chế độ bản vị bạc.
Có thể coi đặc tính của hệ thống tiền tệ quốc tế trước những năm 1870 là song bản vị tức là cả vàng và bạc đều được sử dụng làm phương tiện thanh toán quốc tế và tỷ giá giữa các đồng tiền được xác định theo giá trị của vàng hoặc bạc. Ví dụ năm 1870 tỷ giá hối đoái giữa Bảng Anh (dựa trên Bản vị vàng) với Franc Pháp (dựa trên lưỡng kim bản vị) được xác lập bằng giá trị vàng của hai loại tiền đó. Hoặc tỷ giá giữa Franc Pháp với Mác Đức (dựa theo bản vị Bạc) được xác định dựa trên giá trị Bạc của hai loại tiền này. Trong khi đó, tỷ giá giữa Bảng Anh và Mác Đức lại được xác định dựa trên tỷ giá của chúng so với đồng Franc Pháp.
Các nước theo chế độ lưỡng kim bản vị thường trải qua hiện tượng nổi tiếng có liên quan đến Quy luật Gresham (Gresham's law). Trên thực tế, các quốc gia thường đúc những đồng xu bằng vàng hay và bạc với những kim loại rẻ tiền hơn. Hiện tượng này còn được gọi là hiện tượng “bào mòn giá trị thực tế của tiền xu”. Quy luật Gresham “Đồng tiền xấu đuổi đồng tiền tốt ra khỏi lưu thông” được Thomas Gresham (1529 – 1579) đưa ra nhằm giải thích hiện tượng xảy ra tại Anh những năm 1540 – 1560 khi phương tiện lưu thông tiền tệ của nước Anh giảm xuống và trong thực tế chỉ còn các đồng tiền bị bào mòn giá trị tồn tại trong lưu thông. Lý do trực tiếp bắt nguồn từ sự áp đặt: cùng một mệnh giá danh nghĩa cho đồng thời cả hai đồng tiền là đồng tiền bị bào mòn giá trị và đồng tiền đầy đủ giá trị. Như vậy, đồng tiền bị bào mòn đã được định giá cao hơn so với hàm lượng kim loại mà nó chứa đựng trong khi đồng tiền đầy đủ giá trị lại bị định giá thấp.Khi hai đồng tiền cùng ở trong lưu thông, đồng tiền bị bào mòn giá trị sẽ được người dân ưu tiên đưa ra sử dụng trong trao đổi hàng hóa. Trong khi đó, đồng tiền đầy đủ giá trị sẽ được đưa vào cất trữ hoặc bị nấu chảy ra để đúc thành những đồng tiền thiếu giá trị để sử dụng trong lưu thông. Nói khác, đồng tiền bị bào mòn giá trị đã loại bỏ đồng tiền có giá trị hơn ra khỏi lưu thông. Sự kiện trên đã khiến Nữ hoàng Anh phải tuyên bố thu hồi toàn bộ đồng tiền đã bị bào mòn giá trị và đúc lại toàn bộ số tiền xu đầy đủ giá trị trong lưu thông.
Còn tại Mỹ, việc quy định tỷ lệ vàng và bạc ở các quốc gia khác nhau dẫn đến việc kinh doanh chênh lệch giá. Chế độ bản vị này đã là nguyên nhà của các xáo trộn trong hoạt động kinh tế do việc đầu cơ đồng tiền vàng hay đồng tiền bạc, tùy theo giá vàng hay bạc trên thị trường rẻ hơn so với giá chính thức (giá luật định). Các nhà đầu cơ có thể mua một ounce vàng ở Mỹ với giá là 15 once bạc, sau đó bán lại ở Pháp với giá 15.5 ounce bạc, như vậy không tính đến các chi phí vận chuyển (mọi rào cản thương mại về vàng và bạc trong thời gian này đều không có) thì với mỗi ounce vàng các nhà đầu cơ lãi được 0.5 ounce bạc. Điều này dẫn đến vàng dần dần chảy ra khỏi nước Mỹ và bạc thì dần chảy ra khỏi nước Pháp. Bên cạnh đó, Những năm 1850 khi vàng được khai thác từ các mỏ mới phát hiện ở California và Úc đã được đưa ồ ạt vào thị trường, giá trị của Vàng đã giảm mạnh. Trong lúc đó, theo tỷ giá chính thức, giá trị của vàng đã được đánh giá cao hơn giá trị thực của nó (1F vàng có giá trị bằng 1,55F bạc có cùng trọng lượng). Do vậy đồng Franc đã chuyển thành tiền vàng. Mặc khác, tại Mỹ sau sự gián đoạn của cuộc nội chiến năm 1861, vào năm 1879, chính phủ Mỹ chính thức tuyên bố không chuyển đổi tiền ra bạc nữa mà chỉ chuyển đổi ra vàng. Chế độ song bản vị sụp đổ, hình thành chế độ bản vị vàng cổ điển. Nước Anh là nước đầu tiên áp dụng bản vị vàng cổ điển (từ bỏ lưỡng kim bản vị) từ năm 1819. Đồng tiền mới của Anh được đúc mang tên Sovereign nặng 123.27 grans vàng và bằng 20 shilling. Các nước khác đã loại bỏ bản vị bạc từ lâu như Đức (1871), Áo (1892), Hà Lan (1875), Tây Ban Nha (1898), Nhật (1897), Ấn Độ (1893). Hai quốc gia trung thành với bạc nhất là Trung Hoa và Đông Dương và là hai quốc gia loại bỏ bạc ra khỏi hệ thống tiền tệ sau cùng: Đông Dương năm 1930 và Trung Hoa năm 1935.
» Tin mới nhất:
» Các tin khác: