Tác lực cạnh tranh từ những công ty đối thủ
Tác lực cạnh tranh mạnh nhất trong mô hình năm tác lực cạnh tranh thường đến từ các đối thủ trong ngành. Thật vậy, thương trường như chiến trường mà ở đó không bao giờ có sự kết thúc của các chiến dịch chiếm lĩnh lòng trung thành của khách hàng. Các công ty trong ngành có xu hướng sử dụng tất cả mọi thủ đoạn mà công ty đó có để cạnh tranh trên thị trường nhằm mục đích cải thiện vị thế của công ty và thu được nhiều lợi nhuân hơn. Cái khó trong quá trình làm chiến lược là phải hoạch địch được một chiến lược đủ để giúp công ty giữ vững được vị thế và chống trả lại các đối thủ. Trường hợp lý tưởng nhất chiến lược phải giúp công ty tạo ra lợi thế cạnh tranh so với đối thủ. Nhưng các cuộc tranh giành thị phần của các công ty luôn luôn diễn ra liên tục và sôi động khiến cho một công ty khi triển khai một bước tiến chiến lược thành công thì gần như ngay lập tức các đối thủ cạnh tranh trong ngành sẽ có những biện pháp tấn công hoặc phòng ngự tương ứng. Hình thức hành động và phản ứng này khiến cho bối cảnh cạnh tranh trên thị trường liên tục thay đổi và tạo ra kẻ thắng người thua khi thị trường phát triển hoặc suy giảm. Tuy nhiên, chẳng có gì đảm bảo cho việc những công ty dẫn đầu thị trưởng có thể tiếp tục duy trì được vị thế cạnh tranh của mình so với các đối thủ. Ở tất cả các ngành, các mánh khóe cạnh tranh của các công ty đối thủ sẽ tạo những động lực cho thành công cho một hoặc một số công ty hoặc khiến cho một hoặc một số công ty nếm trải cảm giác thất bại trên thị trường căn cứ theo chiến lược mới nhất của công ty đó thành công hay thất bại.
Một số yếu tố ảnh hưởng đến mức độ “thù địch” giữa công ty và các đối thủ cạnh tranh đó là:
· Sự cạnh tranh gia tăng khi đối thủ đưa ra một hành động mới để thúc đẩy vị thế cạnh tranh và hiệu năng kinh doanh của mình.
· Sự cạnh tranh gia tăng ở các ngành mà các công ty ngang bằng nhau về quy mô và năng lực.
· Sự cạnh tranh thường gia tăng trên các thị trường tăng trưởng chậm và yếu hơn ở các thị trường tăng trưởng nhanh.
· Sự cạnh tranh thường yếu hơn ở các ngành có nhiều công ty nhỏ; tương tự, sự cạnh tranh thường yếu hơn ở các ngành có ít hơn năm công ty cạnh tranh.
· Sự cạnh tranh gia tăng khi nhu cầu của khách hàng giảm sút và các công ty vận hành quá công suất và/hoặc quá tải về lưu kho.
· Sự cạnh tranh gia tăng khi việc chuyển đổi sản phẩm đối với khách hàng là ít tốn kém.
· Sự cạnh tranh gia tăng khi các đối thủ cạnh tranh trở nên tiêu chuẩn hóa và thu hẹp hoạt động vì sản phẩm của các công ty này đã trở nên khác biệt hóa.
· Sự cạnh tranh gia tăng mạnh mẽ khi điều kiện của ngành hấp dẫn các công ty cắt giảm giá thành sản phẩm hoặc sử dụng một phương thức cạnh tranh khác để gia tăng khối lượng sản phẩm.
· Sự cạnh tranh gia tăng khi một hoặc nhiều công ty trở nên bất mãn với vị thế hiện tại trên thị trường của mình.
· Sự cạnh tranh gia tăng khi các công ty mạnh ngoài ngành mua lại các công ty yếu trong ngành và khởi động các bước tiến chiến lược với đầy đủ nguồn lực để chiếm lĩnh thị phần.
Đối thủ cạnh tranh có thể được miêu tả là rất tàn bạo hoặc khốc liệt khi các công ty bị cuốn vào cuộc chiến giá thành hoặc thường có thói quen sử dụng các chiến thuật hiếu chiến để hủy hoại lợi ích của nhau. Đối thủ cạnh tranh được xem là hung dữ hoặc mạnh mẽ khi cuộc chiến tranh giành thị thuần diễn ra quá sôi động đến mức lợi nhuận biên của hầu hết các thành viên trong ngành đều bị ảnh hưởng đến mức tiêu cực. Đối thủ được đánh giá là trung bình hoặc bình thường khi sự cạnh tranh giữa các công ty trong ngành mặc dù vẫn rất sinh động và lành mạnh nhưng không ảnh hưởng gì đến khả năng gặt hái lợi nhuận của các bên. Đối thủ cạnh tranh là yếu khi hầu hết các công ty trong ngành đều cảm thấy tương đối hài lòng với doanh số tăng trưởng hàng bán và thị phần của mình cũng như rất ít khi phải thực hiện các chiến lược tấn công để tước đoạt khách hàng từ các công ty khác trong ngành.
» Tin mới nhất:
» Các tin khác: