Hiệu quả của luật chống độc quyền
Hiệu quả của luật chống độc quyền
Luật chống độc quyền có hiệu quả hay không ? Mặc dù câu hỏi này rất khó trả lời, nhưng ít nhất chúng ta có thể quan sát cách thức mà luật này được áp dụng để chống độc quyền, hợp tác, giá cố định, giá phân biệt và hợp đồng ràng buộc.
Độc quyền Dựa trên nguyên tắc của lý do, nhìn chung chính phủ khoan dung trong việc áp dụng luật chống độc quyền để cho độc quyền phát triển một cách tự nhiên. Nhìn chung, công ty sẽ bị chính phủ Liên bang kiện chỉ khi nó có thị phần thật lớn và khi có bằng chứng chong rằng nó lạm dụng để thực hiện những hành vi nhằm đạt được, di trì hay mở rộng khả năng thống trị thị trường của nó.
Kể từ những năm 1980, vấn đề đưa ra biện pháp chống độc quyền xuất hiện ở hai trường hợp độc quyền cụ thể đáng chú ý. Đầu tiên là trường hợp AT&T (American Telephone and Telegraph) chính phủ đã cho rằng AT&T vi phạm đạo luật Sherman bởi đã có những hành động kinh doanh chống cạnh tranh để di trì khả năng độc quyền đối với thị trường điện thoại trong nước. Theo như một phần thỏa thuận của AT&T và chính phủ, vào năm 1982 AT&T đồng ý tự phân chia nó ra thành 22 công ty con.
Trường hợp độc quyền thứ hai là trường hợp Microsoft. Vào năm 2000 đã bị cho là vi phạm đạo luật Sherman bởi đã có một số hành động phạm pháp nhằm di trì khả năm độc quyền của nó trong thị trường máy tính cá nhân. Tòa án cấp dưới xử Microsoft phải bị chia thành 2 công ty cạnh tranh. Tòa án phúc thẩm vẫn giữ nguyên án mà tòa án cấp dưới xử cho Microsoft vì vi phạm độc quyền nhưng xóa bỏ lệnh phá vỡ Microsoft. Thay vì cải cách lại cấu trúc thì kết quả cuối cùng là Microsoft phải khắc phục hành vi của mình thông việc việc cấm tham gia vào những hoạt động kinh doanh nhằm chống cạnh tranh.
Nhìn chung, Ủy ban chống độc quyền của Liên minh Châu Âu (EU) có nhiều tiến bộ hơn so với Mỹ trong việc truy tố những nhà độc quyền. Ví dụ, vào năm 2004 EU đã phạt Microslft 750.000 USD do độc quyền và yêu cầu nó phải chia sẻ mật mã máy tính với những công ty khác trong việc cung cấp ứng dụng Windows (như một media player). Mục đích của yêu cầu chia sẻ mật mã này là để cho phép các đối thủ cạnh tranh cạnh tranh một cách công bằng với phần mềm ứng dụng mà Microsoft sở hữu.
Dưới đây là một số các đạo luật chống độc quyền mà Mỹ đang áp dụng :
· Đạo luật Sherman năm 1890 ngăn cản thương mại và độc quyền ; đạo luật Clayton năm 1914 được sửa đổi từ đạo luật Celler-Kefauver năm 1950 cấm thiết lập giá phân biệt (khi nó chống cạnh tranh), hợp đồng ràng buộc, sáp nhập nhằm chống cạnh tranh và hội đồng quản trị hỗn hợp.
· Đạo luật ủy ban thương mại Liên bang năm 1914 được bổ sung từ đạo luật Wheeler-Lea năm 1938 tạo ra ủy ban thương mại Liên bang (FTC) và cho nó quyền được kiểm tra những hình thức cạnh tranh không công bằng và những hành động lừa dối trong thương mại.
· Hiện tại, để xử các vụ độc quyền tòa án sử dụng « quy tắc của lý do » mà được thiết lập lần đầu tiên trong trường hợ U.S Steel năm 1920. Trong quy tắc này chỉ khi nào những nhà độc quyền có được hay di trì việc lạm dụng quyền lực của họ thì mới phạm pháp theo đạo luật Sherman.
· « Trường phái cấu trúc » cho rằng những ngành tập trung cao thì sẽ hành xử giống như một nhà độc quyền ; « trường phái hành vi » cho rằng mối quan hệ giữa cấu trúc ngành và hành vi của công ty thì không chắc chắn.
· Mức độ nghiêm khắt trong việc thực thi luật chống độc quyền thì phụ thuộc vào triết lý chống độc quyền của những nhà quản lý Mỹ và người được bổ nhiệm phân xử các vụ chống độc quyền.
· Chính phủ xử lý những độc quyền tồn tại một cách rất khoan dung miễn là nó không lạm dụng sức mạnh độc quyền ; ngăn cản hầu hết việc sáp nhập ngang giữa các công ty lớn, những công ty tập trung cao trong ngành ; và truy tố việc thiết lập giá cố định và hợp đồng ràng buộc.
Biên dịch : Lê Thị Khánh Ly
» Tin mới nhất:
» Các tin khác: