Vốn xã hội và phát triển kinh tế (phần 1)
Vốn xã hội (social capital), cũng như tài nguyên thiên nhiên (natural capital – vốn tự nhiên) hay máy móc thiết bị sản xuất (manufactured capital – vốn sản xuất), cũng là một nguồn vốn trong nền kinh tế. Khái niệm này bắt đầu xuất hiện từ đầu thế kỉ 20 bởi Lyda Judson Hanifan, sau đó liên tục được phát triển bởi các nhà xã hội học, kinh tế học như Pierre Bourdieu, James Coleman hay Francis Fukuyama. Tuy vậy Robert D. Putnam, nhà khoa học chính trị nổi tiếng người Mỹ, giáo sư đại học Harvard ngành chính sách công, là người đầu tiên đưa khái niệm vốn xã hội trở thành tâm điểm của các nghiên cứu khoa học và tranh luận rộng rãi.
Theo Putnam “vốn xã hội là các mối liên kết giữa các cá nhân – các mạng lưới xã hội và các quy tắc qua lại và từ đó hình thành nên sự tin tưởng”. Ông nhấn mạnh rằng yếu tố căn bản trong vốn xã hội đó là “đạo đức dân sự” (civic virtue), và yếu tố này càng mạnh hơn trong một xã hội có các mối quan hệ xã hội qua lại (reciprocal social interactions). Một xã hội có nhiều cá nhân bị tách biệt thì không giàu vốn xã hội . Ông cũng nhấn mạnh tầm quan trọng của các hiệp hội (association) và xã hội dân sự. Vốn xã hội góp phần nâng cao chất lượng c ủa một đời sống dân sự và phát triển một xã hội dân sự.
Ngân hàng thế giới cũng đã công nhận “vốn xã hội chỉ đến các tổ chức, các mối quan hệ, và các khái niệm hình thành nên số lượng và chất lượng của các tương tác xã hội trong một xã hộị. Ngày càng có nhiều minh chứng cho thấy các cố kết xã hội rất quan trọng cho các xã hội tăng trưởng về mặt kinh tế và phát triển một cách bền vững”.
Trong cuốn sách “Bowling Alone: The collapse and revival of American community” ông đưa ra một số lý do giải thích vì sao vốn xã hội quan trọng:
1. Vốn xã hội cho phép công dân giải quyết các vấn đề tập thể dễ dàng hơn, mọi người thường có lợi nếu họ hợp tác với nhau để giải quyết phần việc của mình
2. Khi mọi người tin tưởng và đáng tin tưởng, thì các mối quan hệ xã hội và kinh doanh sẽ tốn ít chi phí hơn
3. Khi con người thiếu các liên hệ với người khác, họ sẽ không thể kiểm tra sự đúng đắn của quan điểm của họ, do đó họ dễ có xu hướng bị lung lay bởi những lúc thiếu bình tĩnh.
Vốn xã hội đối với một cá nhân có thể đơn giản là các mối quan hệ xã hội mà người đó có, được xây dựng trên sự tin tưởng và có tính cố kết chặt chẽ. Một người nói rằng danh sách bạn bè của mình có hơn 100 người, nhưng có khi cả năm không nói chuyện với nhau thì đó không phải là những mối quan hệ bền vững. Mặt khác, một người có ít hơn 100 bạn, nhưng lại thường xuyên nói chuyện, hỏi thăm, trao đổi thư từ, gặp gỡ những người này thì rõ ràng là vốn xã hội mà người này có lớn hơn nhiều. Giàu vốn xã hội hay nói cách khác là giàu các mối quan hệ xã hội dựa trên sự tin tưởng, tích cực và bền chặt là có ý nghĩa quan trọng trong việc giúp các cá nhân hạnh phúc và thành công hơn trong cuộc sống. Ví dụ đơn giản, khi bạn cần mua một chiếc máy tính chẳng hạn. Nếu bạn có một người bạn làm trong nghề buôn bán máy tính hay am hiểu máy tính, bạn biết người này rất rõ và tin tưởng họ, thì bạn hoàn toàn có thể nhờ người này tư vấn để mua máy tính mà khỏi cần tìm hiểu các nguồn thông tin trên mạng rất mất thời gian.
Khi xin việc cũng vậy. Có một con số không chính thức là 70% việc ở Mỹ không được đăng tải chính thức trên các phương tiện truyền thông, mà qua truyền miệng. Do đó rất nhiều người tìm được việc qua bạn bè giới thiệu, và thực tế cũng cho thấy tỉ lệ hài lòng với công việc cao hơn, tỉ lệ bỏ việc thấp hơn trong nhóm những người xin việc qua các mối quan hệ cá nhân như thế này.
» Tin mới nhất:
» Các tin khác: