NỢ CÔNG TĂNG CAO_GÓC NHÌN QUY ĐỊNH BẢO LÃNH NỢ (P2)
NỢ CÔNG TĂNG CAO_GÓC NHÌN QUY ĐỊNH BẢO LÃNH NỢ
LTS: Nợ công luôn là động lực và nỗi lo của mỗi quốc gia, mỗi Chính Phủ trong việc huy động và quản lý nguồn lực này phục vụ phát triển kinh tế. Việc quàn lý nợ công ở Việt Nam luôn được các nhà quản lý giám sát chặt, tuy nhiện nó vẫn càng ngày càng tăng . Bài viết này tập trung lý giải vì sao nợ công tăng dưới góc nhìn về việc bảo lãnh nợ
Nợ bảo lãnh của Chính Phủ
Theo bản tin quản lý nợ công số 5, 2015 của Bộ Tài chính, dư nợ bảo lãnh chính phủ của Việt Nam đã tăng từ 11,935 tỉ USD năm 2010 lên đến 20,791 tỉ USD năm 2015. Tức là chỉ sau khoảng 5 năm, dư nợ bảo lãnh chính phủ tăng 74,2%, trung bình ở mức 11,7% mỗi năm.
Trong đó, dư nợ nước ngoài tăng từ mức 4,733 tỉ USD lên mức 11,314 tỉ USD cũng trong giai đoạn 2010-2015, tăng gấp 2,4 lần, trung bình 19% mỗi năm.
Tuy nhiên, có một con số khá quan trọng mà những người làm bản tin này đã không đưa vào, đó là trong tổng số 18,565 tỉ USD trả nợ bảo lãnh từ năm 2011-2015, bao nhiêu tiền trong đó là do các doanh nghiệp nhà nước tự trả, bao nhiêu trong đó là phải lấy từ ngân sách để trả cho những dự án thua lỗ.
Điều gì khiến cho bảo lãnh chính phủ tăng phi mã trong giai đoạn vừa qua? Có lẽ cần nhìn lại vào những quy định của pháp luật .
Quy trình bảo lãnh chính phủ thông thường sẽ diễn ra như sau:
i. Doanh nghiệp nhà nước trong lĩnh vực đó lập dự án, nộp hồ sơ xin bảo lãnh. Dự án phải đáp ứng một số điều kiện:
- Thuộc danh mục ưu tiên bảo lãnh.
- Phải có vốn đối ứng chủ sở hữu ít nhất 20% dự án.
- Tình hình tài chính lành mạnh.
- Phải nằm trong hạn mức bảo lãnh chính phủ hằng năm.
ii. Bộ Tài chính thẩm định hồ sơ, trình Thủ tướng quyết định chủ trương bảo lãnh.
iii. Sau khi Thủ tướng quyết định chủ trương bảo lãnh, doanh nghiệp nhà nước đàm phán hợp đồng với bên cho vay.
iv. Hợp đồng vay được trình cho Thủ tướng Chính phủ để phê duyệt nội dung thư bảo lãnh.
Các quy định quá dễ dãi về thẩm quyền, đặt ra nhiều ngoại lệ đã là những kẽ hở khiến bảo lãnh chính phủ tăng nhanh, kéo theo nhiều dự án kém hiệu quả.
Theo quy định của Luật quản lý nợ công 2009 và nghị định 15/2011/NĐ-CP, thẩm quyền của Thủ tướng Chính phủ trong việc cấp bảo lãnh là rất lớn. Mặc dù có quy định dự án phải thuộc danh mục lĩnh vực được ưu tiên bảo lãnh, nhưng vẫn mở ra trường hợp ngoại lệ. Thủ tướng có thể cho phép bảo lãnh dự án không thuộc danh mục trên. Mặc dù quy định chủ dự án phải có ít nhất 20% vốn đối ứng, nhưng lại cho phép miễn áp dụng quy định này nếu được Thủ tướng cho phép. Nói cách khác, trước năm 2017, Thủ tướng có thể cho phép bảo lãnh một dự án mà không cần bất kỳ một đồng vốn đối ứng nào. Mặc dù có quy định hạn mức bảo lãnh chính phủ, nhưng nếu có dự án xin bảo lãnh vượt quá hạn mức thì Thủ tướng có quyền điều chỉnh hạn mức. Bộ Tài chính phải thẩm định hồ sơ về khả năng trả nợ, nhưng nếu dự án được Thủ tướng quyết định chủ trương đầu tư thì có thể đi tắt mà không cần được thẩm định... Với một quy trình nhiều ngoại lệ như vậy, bảo lãnh tăng nhanh là điều dễ hiểu.
Và Chính Phủ đã nhận vấn đề và thực việc siết chặt điều kiện nhận bảo lãnh chính phủ. Điều này sẽ khiến doanh nghiệp gặp khó trong việc huy động vốn cho các dự án đầu tư, và có thể dẫn đến việc phải vay thương mại với lãi suất cao. Nhưng cũng cho rằng trong bối cảnh hiện nay, đó là một điều cần thiết.TDU
Đình Uyên
Tài liệu tham khảo:
(1) http://www.imf.org/external/ns/search.aspx?NewQuery=NATIONAL+DEBT&submit=
(2) http://www.worldbank.org/en/search?q=NATIONAL+DEBT¤tTab=1&label=training
(3) Luật Quản lý nợ công số 29/2009/QH12
(4) Bản tin nợ công số 5, 06/2017, Bộ Tài chính http://www.mof.gov.vn/webcenter/portal/btc/r/lvtc/qln/qln_chitiet?dDocName=MOFUCM109581&_afrLoop=22746412751587304#!%40%40%3F_afrLoop%3D22746412751587304%26dDocName%3DMOFUCM109581%26_adf.ctrl-state%3Dnr4oe4z94_143
» Tin mới nhất:
» Các tin khác: