Các trường hợp áp dụng luật chống độc quyền tại Mỹ
Sự khác nhau trong cách hiểu của tòa án cũng dẫn đến sự khác nhau lớn lao trong việc áp dụng luật chống độc quyền. Cụ thể, có hai câu hỏi xuất hiện : (1) Trong chính sách chống độc quyền thì nên tập trung vào hành vi độc quyền hay cấu trúc độc quyền ? (2) Mở rộng ra, trong trường hợp chống độc quyền thì thị trường nên được định nghĩa như thế nào ?
Trường hợp Standard Oil năm 1911, Tòa án tối cao đã trừng phạt hành động độc quyền trong ngành công nghiệp dầu mỏ của Standard Oil vì một loạt các hành động lừa dối và chống cạnh tranh. Biện pháp trừng phạt của tòa án là chia Standard Oil ra thành một vài công ty cạnh tranh. Nhưng trường hợp của Standard Oil lại đặt ra một câu hỏi quan trọng : Theo điều 2 của Đạo luật Sherman tất cả mọi độc quyền đều phạm pháp hay việc tạo ra và duy trì hành động chống cạnh tranh là phạm pháp ?
Trường hợp U.S Steel năm 1920, Tòa án thiết lập quy tắc của lý do, không phải tất cả độc quyền đều bất hợp pháp. Chỉ có độc quyền « không có lý do » nhằm ngăn cản trong thương mại theo điều 2 của Đạo luật Sherman và là chủ đề để chống độc quyền. Nếu nó một mình nó không có hành vi phạm tội. Mặc dù, U.S Steel có sức mạnh độc quyền một cách rõ ràng, nhưng nó lại vô tội trong « độc quyền » bởi vì nó không vi phạm đến những hành động bất hợp pháp chống lại cạnh tranh nhằm đạt được sức mạnh độc quyền và nó cũng không có lý do chính đánh trong việc sử dụng sức mạnh độc quyền của nó. Không giống như Standard Oil, gọi là « độc quyền xấu » còn U.S Steel gọi là “độc quyền tốt” và vì thế nó không phạm luật.
Trường hợp Alcoa năm 1945, Tòa án tối cao gởi trường hợp này đến tòa án Mỹ ở Newyork để kháng cáo. Đó chỉ là sự sở hữu một sức mạnh độc quyền (Alcoa nắm 90% thị trường aluminum) mà đã vi phạm luật chống độc quyền. Vì thế Alcoa đã mắc tội theo Đạo luật Sherman.
Hai trường hợp này đã tạo ra một cuộc tranh luận về chính sách chống độc quyền. Một công ty nên bị xét xử bởi hành vi của nó (như trường hợp U.S Steel) hay cấu trúc của nó hay thị phần (như trường hợp Alcoa) ?
· « Những người theo trường phái cấu trúc » thì cho rằng công ty có thị phần lớn sẽ cư xử giống như một nhà độc quyền. Từ đó năng lực kinh tế của những công ty này sẽ không như mong muốn, họ có những mục tiêu chính đáng trong hành động chống độc quyền. Một số người cho rằng sự thay đổi cấu trúc của những ngành này bằng cách chia nhà độc quyền ra thành một số công ty nhỏ hơn sẽ làm cả thiện hành vi và năng lực của chúng.
· « Những người theo trường phái hành vi » khẳng định rằng mối quan hệ giữa cấu trúc, hành vi và năng lực là hời hợt và không rõ ràng. Họ cảm thấy rằng độc quyền hay tập trung cao ở một ngành nào đó có thể là sự tiến bộ của kỹ thuật và nó rất rốt trong việc cung cấp sản phẩm với chất lượng cao ở một mức giá hợp lý. Nếu một công ty đáp ứng tốt yêu cầu của xã hội và không có những hành động chống cạnh tranh, thì nó sẽ không bị buộc tội độc quyền bởi vì nó có thị phần lớn. Thị phần này có được có thể là từ sản phẩm có kỹ thuật vượt trội, sản xuất vượt trội và quy mô kinh doanh. Họ đặt ra câu hỏi là « Tại sao sử dụng luật chống độc quyền để kìm hãm hiệu quả, sự tiến bộ kỹ thuật, sự quản lý tốt ở các công ty ? »
Qua 25 năm, tòa án xem lại nguyên tắc của lý do được thiết lập lần đầu tiên vào năm 1920 trong trường hợp U.S Case, và hầu hết những nhà kinh tế đương thời và lực lượng chống độc quyền bác bỏ quan điểm của trường phái cấu trúc. Thay vào đó, năm 1982 chính phủ phải đối mặt với vụ độc quyền của IBM trong vòng 13 năm, theo đó IBM không có lý do chính đáng trong việc ngăn cản thương mại. Gần đây, chính phủ đã không có nhiều nổ lực trong việc dập tắt độc quyền của Intel trong việc bán con chíp cho máy tính cá nhân. Và trong trường hợp của Microsoft (chủ đề trong Lời cuối chương của chương này) chính phủ Liên bang đã đưa ra lý lẽ chứng minh rõ ràng rằng Microsoft đã có hành vi nhằm duy trì và mở rộng độc quyền, nó không có thị phần lớn và do đó nó vi phạm đạo luật Sherman. Chính phủ đã tuyên bố rằng Microsoft là « độc quyền xấu ».
Thị trường liên quan Tòa án thường đưa ra quyết định liệu rằng có hay không việc tồn tại một sức mạnh thị trường thông qua thị phần được nắm giữ bởi những công ty lớn. Họ đồng ý với « quy luật 90-60-30 » được định nghĩa trong độc quyền : Nếu một công ty có 90% thị phần thì nó được xem là nhà độc quyền, nếu nó có 60% thị phần nó có lẽ là một nhà độc quyền, nếu nó có 30% thị phần rõ ràng rằng nó không phải là một nhà độc quyền. Thị phần sẽ phụ thuộc và cách thức định nghĩa thị trường. Nếu thị trường được định nghĩa theo nghĩa rộng bao gồm tất cả những gì tương tự như sản phẩm thì thị phần của công ty sẽ nhỏ. Nếu thị trường được định nghĩa theo nghĩa hẹp để loại trừ sản phẩm thì thị phần sẽ lớn. Nhiệm vụ của Tòa án tối cao là quyết định cách thức chung nhất để định nghĩa thị trường liên quan và nó không phải lúc nào cũng nhất quán.
Trong trường hợp của Alcoa, tòa án sử dụng định nghĩa theo nghĩa hẹp của thị trường liên quan : thị trường aluminum. Trường hợp DuPont cellophane vào năm 1956 thì tòa án lại định nghĩa thị trường theo nghĩa rất rộng. Chính phủ cho rằng, DuPont có giấy phép trong việc kiểm soát 100% thị trường cellophane. Nhưng chính phủ chấp nhận lý lẽ của DuPont rằng thị trường liên quan bao gồm tất cả « nguyên vật liệu đóng gói linh hoạt » - giấy waxed, aluminum, và nhiều thứ khác, nó chỉ kiểm soát 20% thị trường « nguyên vật liệu đóng gói linh hoạt ». Tòa án quy định rằng điều này không phải là độc quyền.
Biên dịch : Lê Thị Khánh Ly
» Tin mới nhất:
» Các tin khác: