Vấn đề kinh tế học của nông nghiệp
Vấn đề kinh tế học của nông nghiệp
Mặc dù những nhà kinh tế học cho rằng “nông nghiệp là một ngành”, ngành kinh tế này thì cực kỳ đa dạng. Nông nghiệp bao gồm trại chăn nuôi gia súc, vườn cây ăn quả, trại sản xuất bơ sữa, trại chăn nuôi gia cầm, nông trại nuôi lợn, nông trại trồng ngũ cốc, nơi vỗ béo súc vật, nơi làm tươi rau quả, nông trường trồng mía và nhiều thứ khác. Một vài nông sản (ví dụ đậu nành và bắp) thì được sản xuất bởi hàng ngàn nông dân. Trong khi đó một số nông sản khác (như gia cầm) thì được sản xuất bởi một số ít người trong một xí nghiệp lớn. Một số nông sản (ví dụ như lúa mì, sữa và đường) thì được trợ cấp rất lớn từ những chương trình của chính phủ Liên bang; một số khác (như trái cây, quả hạch và khoai tây) thì nhận được rất ít sự trợ cấp từ chính phủ.
Ngoài ra, nông nghiệp còn bao gồm những sản phẩm từ nông nghiệp hay nông sản và cả những thực phẩm được chế biến từ nông sản (những sản phẩm được bán trong các nhà hàng hay các cửa hàng thực phẩm). Nhìn chung, sự cạnh tranh của các công ty chế biến từ nông sản sang thực phẩm từ nông sản đang giảm. Mặc dù có hàng ngàn nông trại và nông trường chăn nuôi gia súc nhưng chỉ có 4 công ty (Tyson, Excel, JBS, và Smithfield) cung cấp 82% các loại thịt đỏ được sản xuất tại các lò mổ gia súc/ xí nghiệp chế biến thịt. Và hàng hàng nông trại trồng cà chua, nhưng chỉ có 3 công ty (Heinz, Del-Monte, và Hunt) sản xuất nước sốt cà chua lớn để bán cho thị trường Mỹ.
Chúng ta sẽ tập trung vào các sản phẩm từ nông nghiệp (hay nông sản) và các nông trường và nông trại sản xuất ra chúng. Một số nông sản thường được bán trong thị trường có sự cạnh tranh cao, trong khi đó một số nông sản khác lại được bán trong thị trường cạnh tranh độc quyền hoặc bán độc quyền.
Một phần là do sự trợ cấp từ chính phủ nên nhìn chung nông nghiệp vẫn là một ngành có được lợi nhuận. Người tiêu dùng Mỹ phân bổ 14% chi phí tiêu dùng của họ cho thực phẩm và những người nông dân nhận được một khoảng doanh thu thường niên là 285 USD từ việc bán sản phẩm từ cây trồng và vật nuôi của họ. Tuy nhiên, qua vài năm, người nông dân Mỹ có thể trải qua những dao động lớn về giá và và đối mặt với những thời kỳ có thu nhập thấp. Hơn nữa, học phải điều chỉnh để thích nghi với sự thật là nông nghiệp là một ngành đang bị giảm sút. Việc đóng góp vào GDP quốc gia của ngành nông nghiệp đang giảm sút đáng kể từ 7% vào năm 1950 thì đến nay con số này chỉ là 1%.
Bây giờ chúng ta cùng xem những vấn đề kinh tế trong ngắn hạn và dài hạn của ngành nông nghiệp.
Trong ngắn hạn: giá và thu nhập luôn thay đổi
Trong ngành nông nghiệp giá và thu nhập không ổn định là do (1) nhu cầu nông sản không co giản, kết hợp với (2) sự thay đổi sản lượng một cách bất thường và (3) sự dao động của nhu cầu nông sản.
Nhu cầu nông sản không co giản
Trong nền kinh tế công nghiệp tiên tiến, nhu cầu nông sản co giản thấp theo giá. Một cách tổng thể, đối với nông sản hệ số co giản nằm trong khoảng từ 0.2 đến 0.25. Con số này cho thấy rằng giá nông sản sẽ phải giảm từ 40 đến 50% nếu người tiêu dùng chỉ gia tăng khối lượng mua của họ lên 10%. Hình như, khách hàng cho rằng giá trị của một đơn vị nông sản thêm vào thấp hơn giá trị của một đơn vị hàng hóa thay thế khác thêm vào.
Tại sao lại thế? Cần nhớ lại rằng yếu tố cơ bản quyết định độ co giản của cầu là sản phẩm thay thế. Khi giá của một sản phẩm giảm, khách hàng sẽ có xu hướng thay thế sản phẩm này bằng một sản phẩm khác mà giá không giảm. Nhưng trong xã hội tương đối giàu có này “ảnh hưởng của sản phẩm thay thế” thì rất khiêm tố đối với thực phẩm. Mặc dù người ta có thể ăn nhiều hơn, nhưng họ không thể ăn từ 3 đĩa một ngày lên 5 hay 6 đĩa một ngày khi mà giá nông nghiệp giảm. Sự thực là nhân tố sinh học kiềm hãm khả năng tiêu thụ thực phẩm hay sản phẩm thay thế khác của một cá nhân.
Nhu cầu nông sản không co giản cũng làm giảm lợi ích biên. Trong nền kinh tế có thu nhập cao, nhìn chung người dân sẽ ăn ngon và mặc đẹp; nhu cầu về thực phẩm và những sợi chế biến từ nông sản sẽ được bão hòa một cách tương đối. Vì thế, một đơn vị nông sản thêm vào sẽ làm giảm lợi ích biên một cách nhanh chóng. Vì thế việc giảm giá mạnh là điều cần thiết để làm tăng một lượng tiêu dùng nhỏ thực phẩm và sợi chế biến từ nông sản.
Sự thay đổi sản lượng một cách bất thường
Đầu ra của nông sản có xu hướng thay đổi từ năm này sang năm khác, lý do chính là nông dân bị hạn chế trong việc kiểm soát sản lượng của họ. Lũ lụt, hạn hán, băng giá, sự phá hủy của sâu bọ và những thảm họa tương tự có thể làm giảm sản lượng, trong khi đó một số nguyên nhân khác có thể làm cho vụ mùa bội thu (sản lượng lớn hơn một cách bất thường). Những việc xảy ra một cách tự nhiên này vượt quá tầm kiểm soát của những người nông dân, họ xem đây như một yếu tố quan trọng ảnh hưởng đến sản lượng.
Thêm vào những hiện tượng tự nhiên là sự cạnh tranh cao ở nhiều nông trại và nông trường đã tạo khó khăn cho những nhà sản xuất trong việc kết hợp chặt chẽ với nhau để kiểm soát sản lượng. Nếu như có hàng ngàn nhà sản xuất độc lập và nhỏ lẻ tổ chức các cơ sở lớn hoặc nhỏ khác thường trên phần đất của họ mỗi năm thì kết quả là sản lượng nông sản có thể rất lớn hoặc rất nhỏ nếu như mùa màng phát triển bình thường.
Kết luận: với cầu thị trường nông sản ổn định, sự không co giản của cầu sẽ chuyển sự thay đổi khá nhỏ của sản lượng thành sự thay đổi khá lớn của giá và thu nhập trong ngành nông nghiệp.
Sự dao động của nhu cầu nông sản
Nhân tố thứ ba làm cho thu nhập của người nông dân không ổn định trong ngắn hạn là bởi sự thay đổi nhu cầu nông sản. Giả sử rằng bằng cách nào đó sản lượng nông sản là ổn định ở mức “bình thường” Qnnhư trong hình 19.2. Bây giờ, nhu cầu nông sản không co giản, sự thay đổi nhu cầu nông sản trong ngắn hạn sẽ tạo ra sự khác biệt về giá và thu nhập mà được kết hợp với sản lượng cố định này.
Có một tranh luận rằng với việc giảm giá nông sản ở một mức nào đó cộng với giảm nhu cầu sẽ làm cho nhiều người nông dân ngừng việc sản xuất của mình trong ngắn hạn, giảm tổng sản lượng và giảm giá và thu nhập của họ. Nhưng việc sản xuất nông nghiệp lại khá nhạy cảm với sự thay đổi của giá trong ngắn hạn bởi chi phí cố định trong việc sản xuất nông nghiệp thì cao hơn so với chi phí biến đổi.
Người nông dân phải đối mặt với những chi phí chủ yếu như chi phí lãi suất, tiền thuê và các khoản thuế chấp trên đất, cơ sở hạ tầng và trang thiết bị sản xuất. Đó là tất cả chi phí cố định. Ngoài ra, chi phí lao động của người nông dân và những thành viên trong gia đình của họ cũng được xem như là một loại chi phí cố định. Chỉ cần họ ở trên nông trại của họ thì các loại chi phí này vẫn tồn tại, họ không thể giảm nó bằng các đốt cháy nông trại. Chi phí biến đổi là một khoản nhỏ được thêm vào để giúp người nông dân thuê thêm người làm, cũng như là chi phí sử dụng để mua hạt giống, phân bón và nhiên liệu. Với tỷ lệ chi phí cố định quá cao, người nông dân thường làm việc chăm chỉ trên phần đất của họ thậm chí khi họ thua lỗ nếu không họ sẽ bị mất nhiều hơn nếu họ dừng việc canh tác của mình trong năm. Chỉ trong dài hị mới tồn một ngành có ý nghĩa với họ.
Biên dịch: Lê Thị Khánh Ly
» Tin mới nhất:
» Các tin khác: