Quan hệ giữa lãi suất và đầu tư
Mức lợi nhuận dự kiến
Chi tiêu vào đầu tư phụ thuộc vào lợi nhuận, doanh nghiệp sẽ mua vốn đầu tư nếu họ nghĩ nó mang lại lợi nhuận. Giả sử một người chủ cửa hàng bán đồ gỗ, đang xem sét anh ta có nên mưa một cái máy mài với trị giá $1000 và có thể sử dụng trong 1 năm. Cái máy mới này sẽ làm tăng sản lượng của cửa hàng và tăng doanh thu. Giả sử rằng doanh thu tăng thêm từ chiếc máy mới này, sau khi đã trừ hết các khoảng phí có liên quan, là $1100. Vì vậy , sau khoảng doanh thu là $1100 trừ đi chi phí mua máy là $1000, cửa hàng có mức lợi nhuận là $100. Chia $100 này cho chi phí $1000, chúng ta có thể tính ra được mức lợi nhuận dự kiến là 10% ($100/$1000). Cần lưu ý rằng đây chỉ là mức lợi nhuận dự kiến, không phải là mức lợi nhuận bảo đảm. Mức doanh thu và lợi nhuận thực tế có thể thay đổi, vì vậy đầu tư có yếu tố rủi ro trong đó.
Lãi suất thực tế
Một chi phí quan trọng liên quan đến đầu tư mà ví dụ của chúng ta đã bỏ qua chính là mức lãi suất, đó là mức chi phí phải bỏ ra để mượn $1000 tiền vốn để có thể mua cái máy mài trị giá $1000.
Tiền lãi được tính bằng cách nhân mức lãi suất i với số vốn $1000 mượn để mua máy. Nếu mức lãi suất là 7%, tiền lãi suất sẽ là $70. Con số này được so sánh với mức lợi nhuận dự kiến $100 ( tại mức lợi nhuận dự kiến là 10%). Nếu như việc đầu tư này diễn ra theo đúng dự kiến, thì nó sẽ mang lại mức lợi nhuận là $30. Vì vậy chúng ta có thể nói, nếu mức lợi nhuận dự kiến (10%) cao hơn mức lãi suất (7%), doanh nghiệp nên đầu tư. Nhưng nếu lãi suất (ví dụ 12%) vượt cao hơn mức lợi nhuận dự kiến, doanh nghiệp không nên đầu tư vào dự án đó. Điều đó có nghĩa là, doanh nghiệp nên tiếp tục đầu tư đến thời điểm mà r = i, bởi vì với tất cả các mức r lớn hơn i, doanh nghiệp đều bỏ vốn đầu tư.
Điều này cũng đúng ngay cả khi doanh nghiệp dùng vốn sẵn có (tiết kiệm) thay vì đi vay mượn. Vai trò của lãi suất trong quyết định đầu tư cũng không thay đổi. Khi doanh nghiệp dùng số tiền này để mua máy, họ đã bỏ qua cơ hội kiếm lợi nhuận nếu bỏ số tiền này vào tiết kiệm ở ngân hàng, hoặc cho một người khác mượn.
Lãi suất thực tế, chứ không phải lãi suất danh nghĩa, đóng vai trò rất quan trọng trong việc quyết định đầu tư. Nhớ lại rằng, lãi suất danh nghĩa được diễn tả bẳng giá trị tiền ở mức hiện tại, trong khi lãi suất thực tế đo mức tiền tại thời điểm cố định, hoặc đã điều chỉnh với lạm phát. Lãi suất thực tế chính là lãi suất danh nghĩa trừ đi lạm phát. Trong ví dụ của chúng ta, các dữ liệu được dùng với giả định với giá trị thực tế chứ không phải danh nghĩa.
Nhưng chuyện gì sẽ xãy ra nếu lạm phát xuất hiện? giả sử mức đầu tư $1000 có mức lợi nhuận thực tế là 10%, và lãi suất danh nghĩa là 15%. Nhìn vào, chúng ta có thể nói rằng mức đầu tư này là không có lời. Nhưng giả sử rằng hiện tại mức lạm phát là 10% / năm. Điều đó có nghĩa là doanh nghiệp sẽ trả lại số tiền lãi có giá trị thấp hơn 10% trong sức mua. Trong khi lãi suất danh nghĩa là 15%, lãi suất thực tế chỉ có 5% (=15% - 10%). Bằng cách so sánh giữa mức lãi suất thực tế là 5% và mức lợi nhuận là 10%, chúng ta có thể thấy rằng đây là mức đầu tư có lợi nhuận và doanh nghiệp nên đầu tư vào đó.
Đường cầu đầu tư
Bây giờ chúng ta chuyển từ quyết định đầu tư của một doanh nghiệp sang tổng mức đầu tư của toàn bộ khối doanh nghiệp. Giả sử rằng tất cả các doanh nghiệp đều đánh giá mức lợi nhuận dự kiến từ tất cả các khoản đầu tư, và thu thập những số liệu đó. Chúng ta có thể tổng hợp những dữ liệu này bằng cách đặt câu hỏi: có bao nhiêu dự án đầu tư có lức lợi nhuận trên 16%? Bao nhiêu dự án có mức trên 14%? Bao nhiêu dự án có mức lợi nhuận trên 12%?
Giả sử rằng không có m ột dự án đầu tư nào có mức lợi nhuận trên 16%. Nhưng giả sử có tổng cộng cơ hội đầu tư trị giá $5 tỷ đô sẽ có mức lợi nhuận từ 14% đén 16%, một khoảng đầu tư trị giá $5 tỷ đô nữa có mức lợi nhuận từ 12% đến 14%, một khoảng đầu tư trị giá $5 tỷ đô nữa có mức lợi nhuận từ 10% đến 12%, và một khoảng đầu tư trị giá $5 tỷ đô nữa có mức lợi nhuận từ 0 đến 2%.
Để tổng hợp những dữ liệu này cho tỷ lệ lợi nhuận, r, chúng ta cộng trị giá của những khoảng đầu tư mà có mức lợi nhuận cụ thể r. Chúng ta có thể tổng hợp lại thành bảng 27.2. Dựa trên bảng này, ví dụ, tại mức 12%, chúng ta có các dự án đầu tư với trị giá $10 tỷ đô sẽ có thể có mức lợi nhuận là 12% hoặc hơn.
Chúng ta biết từ ví dụ trước đây, khoảng đầu tư để mua cái máy mài sẽ được tiến hành nếu mức lợi nhuận dự kiến cao hơn mức lãi suất thực tế, i. Giả sử i bằng 12%, doanh nghiệp sẽ đầu tư nếu r cao hơn 12%. Có nghĩa là, doanh nghiệp sẽ tiếp tục đầu tư cho đến khi mức đầu tư dự kiến bằng với mức lãi suất 12%. Đồ thị 27.5 cho thấy khoảng đầu tư trị giá $10 tỷ đô sẽ được thực hiện tại mức lãi suất 12%, và đó cũng có nghĩa là sẽ có các khoản g đầu tư tổng cộng $10 tỷ đô sẽ có lức lợi nhuận từ 12% trở lên.
Nguyễn Lê Giang Thiên, dịch từ McConnell, C. R., Brue, S. L., & Flynn, S. M. (2017). Macroeconomics, 21th Edition. Boston, US: McGraw-Hill/Irwin
» Tin mới nhất:
» Các tin khác: