NGÂN HÀNG SỐ VA Ý ĐỊNH SỬ DỤNG NGÂN HÀNG SỐ
1. Khái niệm ngân hàng số:
Ngân hàng số (Digital Banking) mang lại nhiều lợi ích cho khách hàng và có sự chuyển đổi tất cả các hoạt động và dịch vụ ngân hàng vào môi trường kỹ thuật số (Anggraeni và cộng sự, 2021).
Ngân hàng số được nhiều ngân hàng sử dụng để đối phó với sự cạnh tranh khốc liệt (Alalwan, Dwivedi, & Rana, 2017). Ngân hàng này hệ thống bao gồm các dịch vụ điện tử thông qua thiết bị kỹ thuật số như ngân hàng qua điện thoại, SMS ngân hàng, ngân hàng di động, và ngân hàng trực tuyến (Sardana & Singhania, 2018). Khách hàng có thể tiến hành giao dịch ngân hàng giao dịch qua điện thoại mà khách hàng liên hệ với trung tâm liên lạc của ngân hàng. Ngân hàng đã cung cấp đội ngũ nhân viên chuyên trách sẽ thực hiện các giao dịch của khách hàng hoặc các chương trình tự động có thể tương tác với khách hàng để thực hiện khách hàng giao dịch.
Theo Chris (2014), ngân hàng số là mô hình hoạt động của ngân hàng mà trong đó, các hoạt động chủ yếu dựa vào các nền tảng và dữ liệu điện tử và công nghệ số, là giá trị cốt lõi của hoạt động ngân hàng. Ngân hàng số được biết đến như là ngân hàng hoạt động dựa trên các ứng dụng tài chính hoặc nền tảng website. Ngân hàng số cho phép thực hiện hầu hết các giao dịch như tại một ngân hàng thông thường với hình thức trực tuyến thông qua mạng Internet. Ngân hàng số là xu thế mà toàn bộ các giao dịch có thể thực hiện trên ứng dụng hoặc nền tảng website, không chỉ riêng các giao dịch chuyển tiền hay các giao dịch đơn giản như ngân hàng điện tử. Đây gần như là xu thế của thị trường ngân hàng trên toàn cầu và đang là đề tài “nóng hổi”, nhận được nhiều sự quan tâm từ các học giả, chuyên gia tài chính tại Việt Nam.
Theo thuật ngữ phổ thông, ngân hàng số là ngân hàng hoạt động trực tuyến và cung cấp cho khách hàng của mình các dịch vụ mà trước đây chỉ có tại chi nhánh ngân hàng. (McKinsey's 2020 Global Banking Review)
Ngân hàng kỹ thuật số cung cấp tất cả các dịch vụ của mình trực tuyến, loại bỏ tất cả các thủ tục giấy tờ như séc, phiếu thanh toán, hối phiếu yêu cầu, ….. Các ngân hàng này sẽ hoạt động giống như bất kỳ ngân hàng thương mại theo lịch trình nào khác và sẽ cho vay ngoài việc nhận tiền gửi.(Erick Massey, 27 jul 2022)
Ngân hàng số là một cấp độ phát triển mới, cao hơn trong hoạt động ngân hàng với đặc trưng nổi bật là tất cả các quan hệ giao tiếp với khách hàng cũng như quy trình xử lý nội bộ đều được thực hiện trên nền tảng, các kênh số cùng với sự hỗ trợ của các mô hình kinh doanh mới, công nghệ số, giải pháp sáng tạo. (Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng- Số 240- Tháng 5. 2022).
=> Theo nhóm tác giả, thì khái niệm Ngân hàng số có thể hiểu là một cấp độ phát triển mới hơn trong hoạt động ngân hàng. Ngân hàng số (Digital Banking) là một hình thức trực tuyến có thể thực hiện tất cả các hoạt động và dịch vụ ngân hàng thông qua internet. Ngân hàng số cho phép thực hiện hầu hết các giao dịch như tại một ngân hàng thông thường với hình thức trực tuyến thông qua mạng Internet. Giao dịch chỉ cần vài thao tác đơn giản, sử dụng mọi lúc mọi nơi và không phải di chuyển hay chờ đợi tại các chi nhánh hay phòng ban ngân hàng, tránh những thủ tục giấy tờ liên quan. Với ngân hàng số, tất cả mọi người chỉ cần ứng dụng hoặc website của ngân hàng là có thể sử dụng các tính năng như: đăng ký online, nộp tiền vào tài khoẻn, quản lý tài chính, thanh toán, chuyển tiền (trong nước và ngoài nước), vay ngân hàng, gửi tiền tiết kiệm,….. Chính vì thế, chúng có tính bảo mật các thông tin an toàn tuyệt đối dưới sự giám sát chặt chẽ của ngân hàng..
Ngân hàng số đang được mọi người sử dụng phổ biến, trở thành xu hướng toàn thế giới. Là một giải pháp thực sự mang lại lợi ích giúp người dùng tiết kiệm tối đa thời gian và công sức khi giao dịch, đồng thời, bảo vệ tài sản người dùng bằng các phương thức bảo mật hiện đại:
3. Ý định
Ý định là yếu tố được sử dụng để đánh giá khả năng thực hiện hành vi của cá nhân được thực hiện để theo đuổi một mục tiêu. Theo Ajzen (1991), ý định mang tính thúc đẩy và thể hiện nỗ lực của một cá nhân sẵn sàng thực hiện một hành vi cụ thể. Ý định được xem là “bao gồm các yếu tố động cơ có ảnh hưởng đến hành vi của mỗi cá nhân, các yếu tố này cho thấy mức độ sẵn sàng hoặc nỗ lực mà mỗi cá nhân sẽ bỏ ra để thực hiện hành vi”. Ý định mang tính thúc đẩy và thể hiện nỗ lực của một cá nhân sẵn sàng thực hiện một hành vi cụ thể. Ajzen cũng nhấn mạnh “khi con người có ý định hành vi mạnh mẽ hơn, họ sẽ có khuynh hướng thực hiện hành vi cao hơn”.
Ý định là một sự bày tỏ hành vi rõ ràng về điều quan tâm, là bước ngoặc cuối cùng trong quá trình đưa ra quyết định, trên thực tế khi ý định đã được xác lập, tỷ lệ ra quyết định thực hiện là rất cao bởi trong quá trình hình thành ý định, các cá nhân đã cân nhắc rất nhiều yếu tố để xác lập ý định cuối cùng và là bước tiệm cận của quyết định, trừ khi ý định được thay đổi trước khi thực hiện một hành động xảy ra (Ajzen & Fishbein, 1980).
Theo nhóm tác giả, thì khái niệm ý định là yếu tố quan trọng đánh giá khả năng người tiêu dùng trong tương lai. Nó có thể thúc đẩy hay cản trở việc tiêu dùng hay sử dụng của khách hàng đối với sản phẩm, dịch vụ hay thương hiệu nào đó. Theo nghiên cứu, ngoài hai yếu tố ảnh hưởng đến ý định hành vi của một cá nhân là thái độ và chuẩn chủ quan thì nhận thức kiểm soát hành vi là yếu tố được đề cập đến. Nhận thức kiểm soát hành vi phản ánh việc dễ dàng hay khó khăn khi thực hiện hành vi và nó có bị kiểm soát hay hạn chế hay không.
4. Khái niệm ý định sử dụng:
Theo Davis (1989 - 1993), ý định sử dụng là nhận thức về xu hướng hay khả năng quyết định sử dụng dịch vụ hay hệ thống. Ý định sử dụng được đánh giá thông qua khía cạnh về thúc đẩy nhu cầu sử dụng, khả năng giới thiệu hệ thống cho người khác, nhận thức về việc nên sử dụng dịch vụ hay xu hướng tiếp tục sử dụng dịch vụ từ nhận thức.
Theo các khái niệm của Ajzen, Davis và cộng sự (1989) đều nhìn nhận rằng, ý định sử dụng của người tiêu dùng liên quan đến mong muốn và nhu cầu của khách hàng trong việc lựa chọn các sản phẩm, dịch vụ liên quan, nhà cung cấp, địa điểm mua hàng. Các khách hàng sẽ có ý định tùy vào đặc điểm của mỗi khách hàng, yêu cầu, mục đích... khác nhau.
Nghiên cứu của Zhang và ctg (2012) cũng khẳng định ý định sử dụng là một khái niệm rất quan trọng trong nghiên cứu và cũng là yếu tố quan trọng nhất quyết định sử dụng thực tế.
Trong Marketing, Philip Kotler (1999) cho rằng, ý định sử dụng của người tiêu dùng thường chịu ảnh hưởng bởi các nhóm nhân tố bên ngoài (nhân tố văn hóa, nhân tố xã hội) và các nhóm nhân tố nội tại (nhân tố tâm lý, nhân tố cá nhân).
Theo đó, nhóm nghiên cứu thấy rằng ý định sử dụng là khả năng của một người quyết định sử dụng về sản phẩm, dịch vụ để từ đó có thể đưa ra ý định của họ có thể hoặc không thể thực hiện một số hành vi nhất định đối với sản phẩm/dịch vụ theo mong muốn và nhu cầu trong tương lai. Ý định sử dụng được đánh giá thông qua khía cạnh về thúc đẩy nhu cầu sử dụng, khả năng giới thiệu hệ thống cho người khác, nhận thức về việc nên sử dụng dịch vụ hay xu hướng tiếp tục sử dụng dịch vụ từ nhận thức..
» Tin mới nhất:
» Các tin khác: