Mức độ sẵn sàng của nguồn nhân lực Việt Nam khi tham gia AEC 2015
Hiện nay, Việt Nam đang ở trong giai đoạn cơ cấu dân số vàng với số dân đạt mốc 90 triệu vào năm 2013 và gần 70% dân số bước vào tuổi lao động mỗi năm. Có thể nói, đây là thời điểm tốt nhất để nguồn nhân lực Việt Nam có thể tham gia vào thị trường lao động AEC. Hiện nay, Việt Nam đang xuất khẩu nhiều lao động sang các nước ASEAN, đặc biệt sang Malaysia với hàng ngàn chỉ tiêu mỗi năm, thu nhập trung bình 150-200USD/tháng với nhiều loại ngành nghề khác nhau, từ đơn giản như giúp việc gia đình đến làm nghề xây dựng. Bên cạnh đó, nhiều ngân hàng, doanh nghiệp (Vietcombank, Agribank, Sacombank, Tập đoàn Hoàng Anh Gia lai…) Việt Nam đã mở chi nhánh và hoạt động khá hiệu quả tại Lào, Campuchia cũng cho thấy khả năng hội nhập nhanh chóng của lao động Việt Nam trong ASEAN gắn với dòng di chuyển thương mại, vốn đầu tư, dịch vụ. Thực tiễn cho thấy, thương mại Việt Nam với các nước ASEAN chiếm tỷ trọng đáng kể với khoảng 20% tổng thương mại của tất cả các đối tác. Nhiều đối tác đầu tư trực tiếp quan trọng tại Việt Nam là các nước ASEAN (như Singapore luôn là một trong ba nhà đầu tư dẫn đầu tại Việt Nam). Một số lượng đáng kể người Việt Nam di chuyển sang các nước ASEAN bằng con đường du lịch và tìm việc làm phi chính thức cũng là dấu hiệu cho thấy, khả năng tiếp cận nhanh chóng với thị trường lao động ASEAN. Hầu hết các danh mục ngành nghề của Việt Nam so với các nước ASEAN tương tự nhau, vì vậy đây là khía cạnh không tạo ra sự khác biệt quá lớn trong đào tạo nghề nghiệp và sựcông nhận lẫn nhau. Đến nay, ASEAN cũng đã có Hiệp định về di chuyển tự nhiên nhân lực trong ASEAN và thỏa thuận công nhận lẫn nhau về chứng chỉ lành nghềcủa cơ quan chính thức như: Dịch vụ kỹ thuật, dịch vụ điều dưỡng, dịch vụ kiến trúc, chứng chỉ giám sát, nhân lực nghề y, nha khoa, kế toán, du lịch. Những dấu hiệu trên cho thấy, tiềm năng đáng kể của lao động Việt Nam trong việc sẵn sàng tham gia cộng đồng ASEAN.
Các yếu tố cấu thành thế mạnh và mức độ sẵn sàng của lao động Việt Nam trong tham gia AEC cũng cho thấy có những yếu tố cản trở hoặc làm giảm mức độ sẵn sàng này:
Thứ nhất, năng suất lao động của Việt Nam còn thấp. Theo đánh giá của Tổ chức Lao động thế giới (ILO), năng suất lao động của Việt Nam thấp hơn 15 lần so với Singapore, bằng 1/5 năng suất lao động của Thái Lan và Malaysia. Đó là chưa đề cập đến so sánh với năng suất lao động của Nhật Bản, Hàn Quốc, Úc, Ấn Độ, New Zealand mà những đối tác này đã có các hiệp định quan trọng với ASEAN và khả năng mở rộng thị trường lao động sang các nước này là không tránh khỏi. Đây là yếu tố làm giảm khả năng hấp dẫn lao động Việt Nam trước các nhà tuyển dụng nước ngoài, thậm chí là khía cạnh để các nhà tuyển dụng tăng tính khắt khe trong yêu cầu đối với lao động Việt Nam.
Thứ hai, trình độ chuyên môn kỹ thuật của lao động Việt Nam chưa đồng đều, trong đó tỉ trọng của trình độ chuyên môn kỹ thuật còn thấp dưới 50% tổng số lao động cùng với chỉ số phát triển con người (HDI) khá thấp so với các nước ASEAN 6 và không cao hơn đáng kể so với nhóm các nước Campuchia, Lào, Myanmar. Tính đến năm 2013, chỉ số HDI của Việt Nam xếp hạng thứ 121/187 nước trong khi các quốc gia trong khu vực như Malaysia là 62, Thái Lan là 89, Indonesia là 108. Thứ ba, sự chuẩn bị kiến thức, kỹnăng và thái độ cũng như trạng thái tâm lý để sẵn sàng di chuyển sang làm việc tại các nước ASEAN chưa cao. Khả năng thích nghi với môi trường làm việc mới, vấn đề kỹ luật lao động, ý thức tuân thủ pháp luật cũng như cường độ lao động cũng cần có sự phân tích và nhận dạng đúng để có giải pháp khắc phục.
» Tin mới nhất:
» Các tin khác: