Các nhân tố quyết định tỷ giá hối đoái
Nhân tố nào có thể làm cho đồng tiền của một quốc gia bị định giá thấp hoặc được định giá cao trên thị trường ngoại hối? Ở đây có ba nhân tố:
(1) Nếu cầu về đồng tiền của một quốc gia tăng (những điều kiện khác cân bằng) thì đồng tiền đó được định giá cao; nếu cầu giảm, đồng tiền đó bị định giá thấp.
(2) Nếu cung về đồng tiền một nước tăng, đồng tiền nước đó bị định giá thấp, nếu cung giảm thì đồng tiền đó định giá cao
(3) Nếu đồng tiền một quốc gia được định giá cao, một số ngoại tệ liên quan bị định giá thấp
Với những yếu tố khái quát đó, chúng ta hãy kiểm chứng các nhân tố tác động đến tỷ giá hối đoái – các nhân tố đẩy đường cung hoặc cầu của một loại tiền tệ dịch chuyển. Hãy luôn nhớ sử dụng các giả thiết khác cân bằng và cũng lưu ý rằng chúng ta đang thảo luận các nhân tố làm thay đổi tỷ giá hối đoái chứ không phải những thứ thay đổi dẫn đến sự thay đổi của tỷ giá.
Những thay đổi khẩu vị: Bất kỳ sự thay đổi nào của khẩu vị người tiêu dùng hoặc việc ưa thích các sản phẩm của nước ngoài cũng có thể làm cầu tiền tệ của quốc gia đó thay đổi và thay đổi tỷ giá hối đoái. Nếu tiến bộ công nghệ trong lĩnh vực điện thoại không dây của Mỹ làm chúng trở nên thú vị đối với người tiêu dùng và doanh nghiệp Anh, thì lập tức người Anh sẽ cung ứng bảng Anh trên thị trường ngoại hối để mua điện thoại không dây của Mỹ. Đường cung bảng Anh sẽ dịch sang phải, dẫn đến bảng Anh bị định giá thấp và đồng đô la được định giá cao. Ngược lại, đường cầu bảng Anh của Mỹ sẽ dịch sang phải nếu đồ len của người Anh trở thành hàng thời trang của người Mỹ. Vì vậy bảng Anh sẽ định giá cao và đô la bị định giá thấp.
Thay đổi các khoản thu nhập liên quan: đồng tiền của quốc gia gần như bị định giá thấp nếu mức thu nhập quốc gia tăng nhanh hơn nước khác. Lý do là ứng với mỗi mức thu nhập khác nhau thì lượng nhập khẩu của mỗi nước cũng khác nhau. Khi tổng thu nhập của Mỹ tăng lên, người Mỹ mua cả hàng nội địa và hàng nước ngoài nhiều hơn. Nếu kinh tế Mỹ tăng trưởng nhanh chóng và kinh tế Anh trì trệ thì Mỹ nhập khẩu hàng của Anh và do đó cầu đồng bảng Anh của người Mỹ sẽ gia tăng, giá đồng đô tính theo bảng Anh sẽ tăng, vì thế đồng đô la sẽ bị định giá thấp.
Những thay đổi mức giá có liên quan: Những thay đổi trong mức giá liên quan giữa hai quốc gia có thể thay đổi cung và cầu tiền tệ và thay đổi tỷ giá hối đoái của đồng tiền hai nước. Lý thuyết cân bằng sức mua cho biết tỷ giá hối đoái cân bằng sức mua của các loại tiền tệ khác nhau. Tức là, tỷ giá hối đoái giữa đồng tiền của các quốc gia điều chỉnh để phù hợp với tỷ lệ mức giá giữa các nước: nếu một giỏ hàng hóa thị trường nhất định nào đó có giá là 10.000 USD ở Mỹ và 5.000 bảng Anh ở Vương quốc Anh thì theo lý thuyết này tỷ giá hối đoái sẽ là 2USD = 1 bảng Anh. Theo cách này, một đồng đô la tiêu dùng ở Mỹ sẽ mua được chính xác một lượng hàng hóa tương ứng nếu đầu tiên đổi nó sang bảng Anh ( với mức tỷ giá 2USD = 1 bảng Anh) và dùng để mua hàng hóa ở Anh. Tuy nhiên, trên thực tế, tỷ giá hối đoái tách ra khỏi cân bằng sức mua, thậm chí trong dài hạn. Những thay đổi của mức giá liên quan là nhân tố quyết định tỷ giá. Ví dụ, nếu giá nội địa ở Mỹ đang tăng dần và vẫn không đổi ở Anh, người tiêu dùng Mỹ sẽ tìm kiếm các mặt hàng giá thấp của Anh, làm gia tăng cầu đồng bảng Anh. Người Anh sẽ mua ít hàng hóa của Mỹ hơn, cung bảng Anh giảm. Sự kết hợp thay đổi cung cầu này sẽ dẫn đến việc đồng bảng anh được định giá cao và đồng đô la bị định giá thấp.
Lãi suất có liên quan : Những thay đổi của lãi suất có liên quan giữa hai nước có thể ảnh hưởng đến tỷ giá hối đoái. Giả sử lãi suất thực ở Mỹ tăng nhưng ở Anh không đổi. Công dân Anh sẽ nhận thấy Mỹ là nơi thú vị để cho vay tiền trực tiếp hoặc gián tiếp thông qua bán trái phiếu chính phủ. Để vay nợ, họ sẽ phải cung bảng Anh trên thị trường ngoại hối để có đồng đô la. Việc gia tăng cung đồng bảng Anh dẫn đến định giá thấp đồng bảng Anh và định giá cao đồng đô la.
Những thay đổi lợi nhuận kỳ vọng có liên quan của chứng khoán, bất động sản và trang thiết bị sản xuất: Mở rộng đầu tư quốc tế bằng cách mua trái phiếu nước ngoài. Nó bao gồm các khoản đầu tư quốc tế về chứng khoán và bất động sản cũng như mua nhà máy của người nước ngoài. Khi những điều kiện khác cân bằng, gia tăng đầu tư nước ngoài phụ thuộc vào khoản lợi nhuận kỳ vọng có liên quan. Để đầu tư, nhà đầu tư ở một nước phải bán tiền tệ của nước họ để mua tiền của nước ngoài đủ cho đầu tư ở nước ngoài. Ví dụ, giả sử đầu tư ở Anh đột nhiên trở nên nổi tiếng hơn do triển vọng tích cực của khoản lợi nhuận kỳ vọng của cổ phiếu, bất động sản và thiết bị sản xuất. Do đó, các nhà đầu tư Mỹ sẽ bán tài sản của Mỹ để mua thêm tài sản của Anh. Tài sản của Mỹ được bán bằng đô la, sau đó được đưa đến thị trường ngoại hối và đổi lấy bảng Anh; đến lượt bảng Anh được sử dụng để mua tài sản của người Anh. Nhu cầu bảng Anh tăng lên trên thị trường ngoại hối sẽ dẫn đến việc định giá cao bảng Anh và đồng đô la bị định giá thấp so với bảng anh.
Đầu cơ: Nhà đầu cơ tiền tệ là người mà mua và bán tiền tệ với mục đích là để bán lại hoặc mua lại chúng để lấy lời. Giả sử nhà đầu cơ kỳ vọng nền kinh tế Mỹ sẽ (1) tăng trưởng nhiều hơn nền kinh tế Anh và (2) trải qua mức tăng giá mạnh hơn Anh. Những kỳ vọng này sẽ chuyển sang thành dự báo rằng đồng bảng sẽ bị định giá cao và đồng đô la bị mất giá. Nhà đầu cơ đang nắm giữ đồng đô la sẽ tìm cách chuyển chúng sang đồng bảng Anh. Những nỗ lực này sẽ làm gia tăng cầu đồng bảng Anh và dẫn đến giá đô la tính theo bảng Anh tăng lên (điều này làm đồng đô la mất giá). Lời tiên đoán tự thực hiện nay sẽ xảy ra: đồng bảng Anh được định giá cao và đồng đô la bị định giá thấp do các nhà đầu cơ hành động với niềm tin vào những thay đổi sẽ thực sự diễn ra. Theo cách này, sự đầu cơ có thể dẫn đến những thay đổi trong tỷ giá hối đoái.
Nguyễn Lê Giang Thiên dịch từ Economic, Mc Graw Hill, 18th edition
» Tin mới nhất:
» Các tin khác: